Hôm nay,  

Di Chúc Doha

16/08/200600:00:00(Xem: 4187)

Điều kinh khủng nhất là qua năm tới, VN sẽ bị chi phối bởi hệ thống luật lệ quốc tế còn lớn hơn luật lệ của đảng và nhà nước mà đa số dân vẫn chưa biết gì về những luật lệ ấy...

Vòng đàm phán Doha để mở rộng ngoại thương cho các nước nghèo trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã tan vỡ tháng trước, vì lý do chính là chế độ bảo hộ nông nghiệp của các nước giàu. Hậu quả của việc ấy sẽ ra sao với các nước đang phát triển như Việt Nam" Diễn đàn Kinh tế đài Á Châu Tự Do RFA tìm hiểu vấn đề này qua cuộc trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, do Việt Long thực hiện sau đây hầu quý thính giả.

- Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, tiếp tục loạt bài từ mấy kỳ vừa qua về việc vòng đàm phán Doha của tổ chức WTO bị tan vỡ, chúng tôi xin đề nghị là kỳ này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về hậu quả. Câu hỏi đầu tiên là liệu có thực rằng vòng đàm phán Doha này vị tan vỡ và hết còn hy vọng cứu vãn gì được hay không"

- Tôi không mấy tin vào phép lạ và sự giác ngộ của lãnh đạo của các nước đã phát triển. Lần trước, các nước có vòng đàm phán Uruguay phát động vào Tháng Chín năm 1986 từ hội nghị tại Punta del Este của xứ Uruguay và kéo dài gần tám năm, cũng với những thời mấp mé khủng hoảng và tan vỡ, nhưng sau đó đã thành công vào Tháng Tư năm 1994, với kết quả là lập ra tổ chức WTO thay thế hệ thống General Agreement on Tariffs and Trade, là hệ thống thỏa ước chung giữa 125 quốc gia về thuế biểu và thương mại. WTO ra đời từ đó.

- Hỏi: Xin hỏi ngay ông, nếu vòng Uruguay mất gần tám năm mới hoàn tất để tạo ra một bước chuyển biến quan trọng trong luồng giao dịch mua bán của các nước, thì tại sao vòng Doha lại không được như vậy sau khi được tổ chức WTO khởi xướng vào năm 2001"

- Tôi nhìn thấy hai lý do gần và xa xoay quanh hai khối kinh tế đã gây đổ vỡ cho vòng Doha là Hoa Kỳ và Âu châu. Gần là khả năng thương thuyết của các chính quyền tại Hoa Kỳ và Âu châu. Xa là khung cảnh chiến tranh và mâu thuẫn toàn cầu.

Trước tiên, tại Hoa Kỳ và Âu châu, khuynh hướng bảo hộ mậu dịch đang thắng thế trong chính trường, với thế lực quá mạnh và đầy bất công của các nhóm áp lực về nông nghiệp. Hoa Kỳ có đạo luật Thương mại năm 2002 mà chính quyền của Tổng thống George W. Bush đã chật vật vận động và tranh đấu mãi mới được, theo đó, Hành pháp có rộng quyền thương thảo về mậu dịch và chuyển qua Quốc hội phê duyệt kết quả theo thủ tục nhanh gọn là chấp nhận trọn vẹn các hiệp định thương mại hay không. Đạo luật gọi là thủ tục ngoại thương nhanh gọn ấy sẽ hết hạn vào cuối tháng Sáu năm tới. Kể từ đấy, Quốc hội Mỹ sẽ cứu xét mọi hiệp định theo từng điều khoản một và có thể đòi tu chính, sửa đổi, khiến mọi việc thỏa thuận đã hoàn tất sẽ phải được thương thuyết lại. Với tư thế chính trị sa sút hiện nay vì hồ sơ Iraq trước một Quốc hội có xu hướng bảo hộ mậu dịch mạnh hơn và có khi còn thay đổi sau cuộc bầu cử tháng 11 này, Tổng thống Bush khó yêu cầu Quốc hội lại cho mình rộng quyền thương thảo về mậu dịch như trong mấy năm qua, căn cứ trên đạo luật về thẩm quyền ngoại thương 2002.

Bên kia Đại Tây Dương, năm tới đây, các nước Âu châu cũng sẽ có bầu cử, nhất là bầu cử tại Pháp là quốc gia đòi duy trì chế độ trợ cấp nông nghiệp mạnh nhất, cho nên các chính khách đều phải lấy lòng cử tri mà không chịu nhượng bộ thêm về ngoại thương. Vì vậy, năm tới đây chưa chắc các nước đã khai thông được vòng Doha. Năm 2008, lại có bầu cử tổng thống tại Mỹ và trong một năm bầu cử thì chẳng ai dám để mất phiếu một thành phần cử tri nào cả.

- Hỏi: Đó là lý do gần, còn lý do xa"

- Dường như người ta quên rằng thế giới đang ở trong thời kỳ chiến tranh, một loại chiến tranh đặc biệt và lan rộng qua mọi biên cương quốc gia vì xu hướng Hồi giáo quá khích, thuộc cả hai hệ phái Sunni và Shia. Chiến tranh sẽ chỉ tăng chứ không giảm nên ưu tiên của lãnh đạo các nước sẽ dồn vào việc đó, kể cả phản ứng và những đòn phép của nhiều xứ chống lại Hoa Kỳ lẫn đối phó với hậu quả suy sụp về kinh tế toàn cầu. Trong hoàn cảnh đó, việc cắt giảm trợ cấp nông nghiệp tại các nước giàu để cứu giúp các nước nghèo càng ít được chú ý và chấp hành. Các nước sẽ giao dịch mua bán với nhau theo khuôn khổ của từng thỏa ước thương mại song phương hơn là những quy định chung sẽ khó đạt trong cơ chế quốc tế của WTO.

- Hỏi: Bây giờ, chúng ta sẽ bước qua phần hậu quả. Nếu vòng đàm phán Doha thực sự tan vỡ thì những chuyện gì sẽ xảy ra"

- Các nước tiếp tục phát triển ngoại thương với nhau nhưng sẽ tranh đấu rất mạnh để tranh thủ quyền lợi của mình qua các hiệp định thương mại song phương hay cấp vùng, nghĩa là trong phạm vi của từng khối kinh tế. Vì vậy, hậu quả của Doha không nhất thiết là sự suy sụp trong khối lượng hàng hoá các nước sẽ mua bán với nhau. Tuy nhiên, di chúc của Doha là khu vực canh nông và nông nghiệp của các nước nghèo sẽ bị thiệt hại nhất vì chế độ bảo hộ nông nghiệp của các nước giàu. Chẳng những khó bán nông phẩm cho các nước giàu lại còn bị các nước giàu cạnh tranh rất mạnh trong khu vực nghèo đói nhất của nền kinh tế và của xã hội.

Hậu quả chung cuộc là các khu vực biến chế công nghiệp và dịch vụ tiếp tục tăng trưởng nhờ trao đổi tự do nhưng khu vực nông nghiệp lạc hậu của các nước nghèo lại bị thiệt thòi và bị bỏ rơi trong đà toàn cầu hoá của kinh tế thế giới. Và động loạn xã hội càng dễ xảy ra. Nhiều người sẽ càng chống toàn cầu hóa, càng thù ghét các nước công nghiệp Tây phương, nhiều khu ổ chuột sẽ bành trướng ở các vùng ven đô, ở ngoại ô thành thị và đấy sẽ lại là môi trường phát sinh khủng bố nếu được tiếp tế võ khí và tiếp nhận những tư tưởng cực đoan quá khích.

- Hỏi: Xin đề nghị là ông phân tách chuyện này trong chi tiết vì đây là một điều khá mới lạ cho nhiều người.

-Đầu đuôi là sự lệch lạc trong cơ chế ngoại thương giữa các nước khiến chế độ trợ cấp nông sản cho một thiểu số ở các nước giàu nhất gây thiệt hại nhiều nhất cho một đa số nghèo nhất của các nước nghèo. Giới kinh tế nói tới phần đóng góp ngày càng ít hơn của nông nghiệp trong luồng trao đổi toàn cầu, từ gần 40% cách đây nửa thế kỷ nay chỉ còn ở khoảng 7%. Tính theo tổng sản lượng của thế giới thì nông nghiệp chỉ chiếm có 4% mà thôi, nhưng là khu vực nuôi sống đa số dân chúng tại các nước nghèo. Chế độ bảo hộ nông nghiệp của các nước giàu khiến họ xuấu khẩu nông sản nhiều và nhanh hơn các nước nghèo và gần hai chục nước giàu nhất thế giới trong khối OECD một năm lại trợ cấp đến 240 tỷ Mỹ kim cho nông gia của họ.

Tại các nước nghèo, thành phần sống nhờ nông nghiệp ở tại nông thôn vẫn chiếm đa số, tại Việt Nam là hơn 75% dân số. Họ hưởng lợi nhờ kinh tế tự do và nhờ toàn cầu hóa không bằng thành phần thị dân hoạt động trong hai khu vực công nghiệp và dịch vụ, vốn là hai khu vực có tốc độ tăng trưởng cao hơn. Hậu quả là hiện tượng đô thị hoá tự phát, người dân tại nông thôn phải chạy vào thành phố kiếm ăn và sống trong những khu ổ chuột tồi tàn, trong những điều kiện cùng khốn mà họ thấy là bất công. Vòng Doha dự tính phá vỡ cái vòng luẩn quẩn khắc nghiệt ấy mà không thành cho nên nông thôn các nước nghèo sẽ bị hậu quả nặng nề nhất.

- Hỏi: Chúng ta bắt đầu nói vào trường hợp Việt Nam, với những hậu quả ra sao"

- Trước tiên, ta phải nói về hiện trạng, sau đó mới là chuyện gia nhập WTO trong cơ chế lệch lạc về mậu dịch nông sản. Việt Nam cũng giống như Trung Quốc, đang được lãnh đạo bởi một đảng tự xưng là xã hội chủ nghĩa mà lại có chính sách ít xã hội nhất, trong ý nghĩa là ít chú ý đến đa số bình dân nghèo túng. Thiểu số cầm quyền là thiểu số nhặm lẹ tiến vào kinh tế thị trường và toàn cầu nhờ đó kiếm lợi nhiều nhất cho bản thân, phần còn lại thì rơi vãi cho người dân. So với thời trước khi đổi mới thì cuộc sống có thay đổi, mức sống có gia tăng. Nhưng, đa số sống tại nông thôn lại không được như vậy nên họ phải dồn vào thành phố kiếm sống và hiện tượng tự phát ấy gây ra rất nhiều vấn đề xã hội mà báo chí nói tới ngày một nhiều hơn. Việt Nam có bị hiện tượng đô thị hoá hỗn loạn như hầu hết các nước nghèo, nhưng còn lãnh thêm cái họa của "định hướng xã hội chủ nghĩa".

- Hỏi: Ông giải thích thế nào về hậu quả của cái gọi là "định hướng xã hội chủ nghĩa" ấy đối với đời sống nông dân"

- Nhà nông của ta không có những thông tin và kiến thức hiện đại về canh nông và thương mại. Họ chỉ có sức lao động và coi việc lấy công làm lãi là quy luật sống. Từ khi chính quyền chấm dứt chế độ hợp tác hoá của thời chủ quan duy ý chí, nông dân có thêm một yếu tố đáng kể là đất đai, nhưng đất đai vẫn thuộc quyền quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa khiến đảng viên cán bộ có quyền cướp đất để công nghiệp hoá và đô thị hoá.

Chúng ta đang thấy tái diễn hiện tượng đại điền chủ của thời phong kiến, nhưng được đổi mới, đại điền chủ ngày nay là đảng viên doanh gia, làm chủ những trang trại lớn và dùng quyền thế của mình để bồi thường quyền sử dụng đất một cách bất công. Đấy là một hiện tượng tham nhũng hợp pháp khiến dân chúng phải biểu tình khiếu kiện từ nhiều năm nay mà đảng và nhà nước không hề giải quyết.

- Hỏi: Ông dùng một phạm trù khá kỳ lạ là "tham nhũng hợp pháp", cái đó là gì"

- Việt Nam có một chế độ thực tế là đảng viên tham nhũng cho đảng vì đảng không hoạt động công khai với ngân sách hay quỹ đảng được thông báo minh bạch như đảng phái chính trị ở các xứ khác. Chỉ khi nào đảng viên tham nhũng cho đảng rồi nhân đó tham nhũng cho riêng mình với một tỷ lệ "không phải đạo" vì quá lớn, thì nội vụ mới được đảng cho phép báo chí tiết lộ và các cơ quan hữu trách điều tra. Chuyện đảng viên ở địa phương cướp đất của dân để đầu cơ về địa ốc hoặc thành lập công ty liên doanh với nước ngoài là phù hợp với chính sách ở trên, nên nông dân có biểu tình hay tự thiêu thì ở trên vẫn làm ngơ.

- Hỏi: Ông hay có lối nói đầy nghịch lý, nhưng có thể chứng minh được những luận cứ đó hay không"

- Chúng ta sẽ phân tích chuyện này một cách cụ thể trong một kỳ khác khi bàn về chính sách nông nghiệp của Việt Nam, tôi chỉ xin nói ngay rằng Trung Quốc có thấy vấn đề ấy và đang cố sửa sai, còn Việt Nam thì chưa.

- Hỏi: Nhưng, liệu việc Việt Nam gia nhập WTO có thay đổi được tình hình ấy hay không"

- Có thay đổi khi mà thiểu số có chức có quyền ngày nay sẽ bị cạnh tranh và người ta phải vén khéo hơn trong cách sung dụng tài nguyên và công sản. Riêng đối với nông dân thì tình hình sẽ thay đổi rất chậm vì quyền lợi của họ vẫn không được bảo vệ, mà họ lại gặp sự cạnh tranh rất mạnh của nước ngoài, của nông phẩm hay hàng chế biến gốc nông nghiệp của nước ngoài.

Điều kinh khủng nhất là qua năm tới, Việt Nam sẽ bị chi phối bởi một hệ thống luật lệ quốc tế còn lớn hơn luật lệ của đảng và nhà nước mà đa số người dân vẫn chưa biết gì về những luật lệ ấy, và càng chưa biết về cách ứng phó hay khai thác sao cho có lợi. Rốt cuộc thì một thiểu số ở thành thị sẽ biết sớm nhất, kiếm lợi nhiều nhất và đa số trong thiểu số may mắn này lại là đảng viên cán bộ nhà nước. Chúng ta sẽ còn có dịp quay trở về đề tài này…

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác...
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
Cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Sáu 18-8-2023 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 98 tuổi. Ông sinh ngày 31-8-1926 tại Hà Đông. Trung tướng Phạm Quốc Thuần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ Binh (Thủ Đức) ngày 20-8-1969...
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật học có câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Từ “sắc” trong câu kinh dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng. Còn “không” là cái không bao giờ xẩy ra. Từ “không” được nhắc đến nhiều trong đạo Phật chính là “Chân Không Diệu Hữu”. Như vậy, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là nói đến “thật tướng” của vạn pháp và đấy chính là “vô tướng”, từ “cái không” do nhân duyên hợp lại thành “cái có”. Và, ngược lại, từ “cái có” tất yếu trở về “cái không”. Chu kỳ ấy là bất diệt, cứ tiếp nối nhau đến vô tận. Đó là cách tiếp cận theo triết học tôn giáo hay siêu hình học. Nhìn từ nhãn quan vật lý học, “cái có” có thể đến từ “cái không” được không? Theo thuyết Big Bang thì có vẻ là như thế. Vật chất tồn tại như ta nhìn thấy – hàng tỉ tỉ dải thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ tỉ ngôi sao, mỗi ngôi sao là một hệ thái dương có thể có nhiều hành tinh, mỗi hành tinh là một thế giới như quả đất chúng ta đang sinh sống – đến từ “cái không có gì”,
Nhân Lễ Tưởng Niệm Nhị vị Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng tiểu bang Victoria-Úc, Ban Tổ Chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài “Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính”, dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
✱ Đs Anh/Đs Lodge: Đề xuất của Hồ Chí Minh về một hiệp định đình chiến - Nhu đã đáp lại rằng đề xuất này "không thực tế" nhưng có thể trở thành thực tế trong ba hoặc bốn tháng tới và đang được nghiên cứu. ✱ Báo Espresso, Italia: Ông Nhu sẵn lòng từ bỏ viện trợ Mỹ nếu đó là cái giá phải trả để loại bỏ sự hiện diện của người Mỹ - Nhu cho biết Việt Nam có thể tồn tại mà không cần người Mỹ - Ông Nhu phản ứng phẫn nộ khi người Mỹ muốn ông rời khỏi đất nước. ✱ Nhà báo M.West,Úc: Ông Nhu nói rằng ông muốn tất cả, lặp lại, tất cả các cố vấn Mỹ đều phải rời đi - Không có người Mỹ, chúng ta có thể thắng chiến tranh trong hai hoặc ba năm - Hiện nay trong ngoại giao Mỹ ở Việt Nam, không có đạo đức. ✱ Đại sứ Lodge: Chúng ta nên xem xét việc rút quân là một khả năng ngày càng gia tăng. Sự bắt đầu của việc rút quân có thể gây ra một cuộc đảo chính...
Một nhóm khoa học giả quốc tế đã thấy bằng chứng lâu đời nhất về cà ri bên ngoài Ấn Độ và cho thấy ý nghĩa lịch sử của hành trình mà các thành phần gia vị này đã trải qua để đến đó. Các nhà nghiên cứu từ Úc, Việt Nam và Trung Quốc đã tìm thấy món ăn này – được biết đến với hương vị cay nồng của đất, có nguồn gốc từ Nam Á và hiện đã phổ biến trên toàn cầu – có lẽ đã được đưa đến bàn ăn của người Việt Nam hơn 1800 năm trước nhờ mạng lưới thương mại hàng hải.
Ở Hoa Kỳ, khi ai đó qua đời, thường thì họ sẽ được ướp xác, đặt trong quan tài và chôn cất tại nghĩa trang (thổ táng), hoặc mang đi hỏa táng, phần tro cốt sẽ được trả lại cho gia đình, người thân. Tuy nhiên, thổ táng và hỏa táng nay đã không phải là các lựa chọn duy nhất. Ngày càng có nhiều nhà tang lễ, cả các công ty khởi nghiệp và tổ chức vô vụ lợi, cung cấp cho mọi người những nghi thức khác nhau dành cho người đã khuất. Trong tương lai, bối cảnh nghi thức tang lễ sẽ đa dạng hơn…
Đã mấy năm nay, một nhóm tên "Sinh viên tranh đấu cho được nhập học công bằng" (Students for Fair Admissions) kiện Đại Học Harvard về tình trạng mà họ cho là bất công lúc xét các ứng viên Á châu nộp đơn vào trường đại học ưu tú này của Mỹ. Nhóm này cho rằng Harvard thực hành “affirmative action” (hành động khẳng định) và "racial balancing" (quân bình chủng tộc) trong quá trình quyết định ai được nhận ai bị từ chối. Nếu không, theo họ, nếu chỉ căn cứ trên thành tích học tập (academics) tỷ lệ sinh viên Á châu được nhận sẽ là 43% tổng số, hay ít lắm 26% nếu xét thêm về hoạt động ngoại khóa, thể thao hay gia đình quen biết với trường ("legacy"); chứ không thấp như mức 18.7% như hiện nay.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.