Hôm nay,  

Tôi Lên... Báo

12/08/200600:00:00(Xem: 3119)

Mô Phật, xưa nay tôi cặm cụi viết mãi, cũng được đăng đều, dù biết mình viết bài không hay lắm, nói cho đúng thì tôi khởi nghiệp, cái nghiệp...chướng nầy từ trang Phusa.net của anh Nguyễn Lê Nguyên, thói thường ở ngoại quốc thì không biết thế nào chứ xứ ta và các nhà văn ta xưa nay chẳng thấy ai là xuôi bườm mát mái trên con đường gọi là ...Văn nghiệp.

Theo lịch sử Việt nam thì người nỗi tiếng nhất có lẽ là cụ Nguyễn Du, tác giả Kim vân Kiều truyện, Âu Á, Đông Tây đều biết cụ, thế mà trong đời còn than thở một câu:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như"

Thuở sinh thời, cũng nhờ văn vẻ ra làm quan, nhưng khốn nỗi,Việt nam thường chiến tranh và phe phái, cuối cùng cụ cũng cáo quan về quê, trên đường về chắc lòng buồn rười rượi, có lẽ không khác mấy cái ngày đầu tiên tôi làm việc với cơ quan an ninh, nhưng cụ có cái ung dung là giũ sạch, còn tôi thì lơ lững chưa biết, nên cụ còn cảm nhận hai câu:

 Trên đường quê gặp người bán củi

Thương nhau, không chỗ giống nhau.

Giống làm sao được kia chứ, kẻ chán sự thối nát mà bỏ quan trường, kẻ thì đầu tắt mặt tối lặn lội kiếm cái ăn, chẳng biết ai khổ hơn ai" Và cũng chẳng biết nếu có thể làm thơ, người tiều phu ấy xuất khẩu vài câu thương hại ngược lại cho cụ thì chí nguy...

Tới những bậc cao nhân thời chữ Nôm chữ Hớn, những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Cao Bá Quát, cho chí thời chữ Quốc ngữ những Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng cũng không thấy ai phất lên hay kiếm miếng ngon ngon nhờ vào mớ chữ, và...cái đáng tội nhất là hình như sau khi họ chết rồi thì mới bất tử, người đời mới chiêm nghiệm, bàn ra tán vào chán chê theo từng giai đoạn lịch sử, cho rồi cấm, rồi lại cho, có tội tình chi mấy ông nhà văn trói gà không chặt ấy nhỉ" Nếu ai cũng hiểu giúp cho rằng, gặp chuyện gì đó, thay vì vung gươm tuốt kiếm như con nhà võ biền, thì giới văn vẻ cũng xả xu-pắp bằng chửi đổng vài bài cho sướng miệng, văn không làm ai sống, chẳng làm ai chết, chỉ có nhột, nhột như cù –lét tí thôi, suy diễn tới chuyện quốc gia đại sự thì ôi thôi...hết biết.

Ngày cách mạng, từ chiến khu có những Hữu Loan, Quang Dũng, Trần Dần...và biết bao nhiêu kẻ khác, sống một đời cơ cực với những đứa con tinh thần do mình đẻ ra, chuyện văn chương nó phải trúc trắc éo le, cả trong văn lẫn trong người mới thành nhà văn, nhà thơ, xét lúc nầy chỉ mỗi ông Tố Hữu là vinh thân phì da nhờ nghề  Thợ, làm tới quan chức Chánh phủ chứ chẳng chơi, nhưng rồi cũng không xong, bỡi lẻ ông làm quan to, nên lại nhúng vào chuyện “Giá, lương, tiền” là chuyện không phải của văn thơ, thành kết cục cũng thành “tối sủa”.

Giá viết văn cũng như học làm mắm thì khỏe biết bao, cứ cho cá cho muối,cho vào hủ rồi chờ thời gian là xực...khổ chuyện văn chương phải hứng thú mới làm ra được, chưa nói tới cái trời cho là khiếu, có ông Tiến sĩ giỏi như trời, nhưng đặt bút lại không nặn ra vài câu,dù sở học tận mây xanh mây đỏ, lại có anh khóa làng không thi đỗ Hương, Hội, Đình thì mở miệng thơ tuôn ra...cứ là xối xã, nhưng...khi có sự Nhột Nhột rồi thì coi chừng, vạ như chơi chứ chẳng đùa,

Ông Hữu Loan gần đất xa trời mới lai tĩnh, còn thì cứ chở đá nung vôi nấu gạch, chỉ vì mỗi bài thơ bất hủ nói thật tâm sự đời riêng ‘Màu tím hoa sim” (cũng bài ấy mà ông Phạm Duy xào nấu ăn ngon thơm phứt, chẳng rõ...những ngày xuôi cố quốc ông ta có ghé lại cảm ơn không nhỉ...") cũng may tới thời kỳ đổi mới đám ”con phe” trước đó được nhà nước tặng danh hiệu Doanh nhân, có hẳn một ngày kỷ niệm nên có kẻ chơi trội, mua bản quyền bài thơ của cụ...những một trăm triệu, cũng đỡ cho cái thân già, tiếc rằng: Lợi thì có lợi mà răng không còn.

Rồi như ông Quang Dũng, ra chiến trường tới Trung đoàn trưởng Tây tiến, nói lên cái khổ của người chiến binh nơi xứ Pathét Lào sốt rét trọc đầu là...bị trọc đầu lần nữa, giá biết bắt chước ai đó nói dối để sống có nhẻ Quang Dũng làm cán bộ cấp Trung ương,như câu hát “Đi chiến trường gùi trên vai nặng trĩu...đàn  Ta lư em hát với ca vang cùng núi rừng...” nặng trĩu là hát với ca chứ đừng than thở nhà thơ Quang Dũng ạ. Vong hồn anh có biết thế không"

Kể ra tôi cũng có sự thiên lệch đôi chút cho những nhà thơ lính, bỡi tôi cũng có thời ở “ Nhà binh”nên trong số nhiều vị như Văn Cao, hay nhiều người khác nữa đại xá, kẻ hèn nầy xin Nam mô a di đà tứ phía...

Cho tới hôm nay, tôi chẳng phải nhà văn, nhà thơ, nhà báo gì sấc, chẳng qua buồn chán cái thói đời ô trọc, bằm xuống bàn phím vi tính ra con chữ rồi gửi đăng, anh em thấy tội, dìu dắt và bỏ qua lỗi chính tả đăng cho vài bài gọi là...có công mài sắt có ngày nên...dùi vậy, hứng chí bằm tới, húc như trâu húc mã, mấy chục bài, anh em đọc cứ tưởng ông già nầy đang độ ...hồi xuân sung sức, viết khỏe.

Quả là chưa vui đã sầu chia phôi, ông nhà nước kiểm duyệt tới báo nước ngoài, thế là thay vì thời @ với bàn phím, tôi lùi lại bút lá tre... tất cả tựa bài đều chung công thức như làm mắm...Tôi tên là. Ngày... tháng... năm sinh..., chánh trú quán v.v...và v.v..

Con trâu hồi xuân thành con trâu què, thời gian và đầu óc lẩn quẩn chuyện chính chị, chính em, chuyện lời khai, lời thuật...anh em báo giới thấy thương cho tôi, đưa tôi lên bàn mổ, phỏng vấn, lên đài, kể ra mà nói tôi cũng mừng cho cái nghiệp của mình, tới lúc hai ba bên định bệnh cho lên bàn mỗ rồi đây, phen nầy ung thư ung thối gì cũng có người chữa, trời không cho sống cũng ra ma. Trăm sự phú cho thiên địa vậy. Anh em họ không chờ tôi viết nữa, họ chăm nhau viết cho tôi,chạy nhiều tít lớn, kể như thằng tôi vô danh tiểu tốt thế nầy, không quan thầy, không rỏn rẽn xu hào gì mà anh em họ thương, tôi biết là lòng thật, mới nghiệm thân tiều phu đốn củi của mình, nhà văn, nhà báo nghèo kiết xác với nhau nhưng có tấm lòng làm ấm nồng, bởi cũng chính họ, đem những ông to, bà lớn trên khắp thế gian ra bêu thằng nọ thằng kia, nhà văn nhà báo đại diện cho dư luận, mà...Dư luận...không có nhiệm kỳ.

Nhưng...lại nhưng, đã mang cái nghiệp vào thân, hơi đâu mà trách trời gần trời xa, không viết thì cứ lóng nga lóng ngóng thế nào ấy, nên bác sĩ có kê toa là không nên uống toa cũ, toa mới là phải cữ kiêng các món có tính chị, em...nên trong thời gian ở cữ cũng kiêng bớt chuyện chị em cái đã, tuổi hồi xuân không biết đã qua chưa" Tới cụ Nguyễn Du mà còn nói văn chương là thứ “Mua vui cũng được một vài trống canh” bác sĩ lập bệnh án, tôi kê toa không đúng chỗ chứ có nói chi chuyện Dân chủ chủ dân mô trời" Thế mà cũng họa. Họa vô đơn chấy. Hử.

Du Lam

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.