Thơ Khai Bút

24/01/202500:00:00(Xem: 2491)
 
Duy Thanh
Minh họa: Duy Thanh
 
1.
Hãy yêu tôi
Mặt đất nói
Hãy yêu tôi
Một ngày tôi nghe tiếng nói
Khi tình cờ đi ngang qua mặt đất
 
2.
Im lặng
Như căn nhà
Nơi kẻ hiếp dâm vừa rời bỏ
 
3.
Nếu tôi có một nửa tự do của bạn
Tôi sẽ về nhà
 
Làm cái cây đứng trong sân trổ hoa
Hay tốt hơn là, khúc gỗ dưới mưa xuân.
 
4.
Mang một ấm trà
Đi qua hai năm
Nước réo sôi
 
5.
Khi nào hết chiến tranh
Tôi sẽ đi dọc sông Ba Lòng
 
Tới dưới chân núi Đakrong
Để đón mẹ tôi về
 
6.
Sau cuộc tử hình
Người mẹ mang con về nhà
Không phải đứa con trai đã chết
Chôn vùi huyệt mộ đêm qua
 
Người mẹ mang con về nhà
Như mang vầng trăng qua cửa sổ
Cái chết chiếu khắp căn phòng
Lạnh lẽo, sáng như trăng
 
7.
Có một khoảnh khắc
Bàn tay giữ anh lại
 
Giữ thật chặt
Như một dấu phẩy
 
Giữ một câu
Anh không ngoái lại
 
Chỉ thấy bóng em trên mặt nước
Trước khi anh được nhấc lên
 
8.
Chỉ bằng cách lắng nghe
Anh nghe tiếng nước xoáy
Nơi sáu dòng sông giao nhau
Bến Lục đầu
 
Chỉ bằng cách lắng nghe
Anh nghe tiếng chân em bước trong mưa
Nhưng khi anh ra mở cửa
Chỉ có chùm chìa khóa treo giữa trời
 
9.
Một người ca sĩ
Chết trong trận đánh
Xương hàm mở há ra
 
Cô vẫn còn hát
Khi viên đạn bay qua
Sâu dưới mặt đất
 
10.
Cho nhân dân tôi, thức dậy trong bóng tối, những người hát bài ca im lặng, những người than thở trong im lặng, những người nổi giận trong im lặng, những người yêu nhau trong im lặng, lời cầu
 
Nguyện cho nhân dân tôi, những người đi trên đường, chạy tất bật từ sáng đến tối, cho bữa ăn của người nghèo đói, hít thở khói và bụi, những người già trước tuổi, những người không bao giờ biết hát, những người không bao giờ biết cười, những người không bao giờ biết nói dối
 
Cho người đàn bà bị hãm hiếp, cho căn nhà đầy bóng tối, cho kẻ bị ruồng bỏ, cho những tội ác chưa bao giờ bị gọi tên, cho đêm xuống, cho mái tóc phủ đầy sương của người bán dạo tiếng rao khuya, vỉa hè, cho những mùa hè nóng rẫy mồ hôi, tiếng sấu rơi, con chó con đi lạc
 
Cho máu người phụ nữ, chảy giữa hai đùi, cho ca khúc phản đối chiến tranh, cho những người đi ngàn dặm đòi lại đất, cho kẻ mất nhà mất cửa đi giữa những lâu đài dinh thự, cho những chữ cái bị mờ đi trong ký ức, cho cuộc phân ly trên đường bay dân tộc
 
Cho một nhân dân chưa biết khóc, cho những cuộc hôn phối dịu dàng, những hạnh phúc muộn màng của người lính cũ, cho áo lính bạc màu, nhạc bolero, người mù chơi đàn, lời tiên tri giả dối, tiếng chuông đổ vô hồi trên mặt nước
 
Cho nhân dân như người góa phụ đi thêm bước nữa, cho cánh cửa nở trắng hoa ti-gôn, ngã ba đường đến trễ không gặp người thương, những nhà văn hì hục viết trang văn lừa dối, cho gió lùa cánh cửa, những nắm tay không hề biết đấm xuống mặt bàn, cho tung tóe lên những trò lừa đảo, tình yêu hư ảo như khách lạ, những kẻ sơ tán đời mình vào chăn gối, ván bài nhân loại lật ngửa
 
Cho kẻ ngây ngất vì hòa bình, tưởng rằng mọi tội lỗi kết thúc, chúng ta yêu lí tưởng mà sao khốn khổ, đi qua gần hết cuộc đời trong sạch lại nhỡ để thua khánh kiệt một lần như rừng lửa cháy, cho kẻ lạc đường trở về tìm những tâm hồn đọng lại suối khe, cho những đêm trăng tự vượt lên chính mình, những bồ câu nay trở thành ác điểu, cho chớp bể gặp lại mưa nguồn, cho pháp trường
 
Ván bài dân tộc xoay nghiêng, kẻ bạc đầu về ngủ lại trên hiên nhà, nhìn mây trắng đuổi nhau như hoa lay mộng dữ, như những chữ bị cắt làm đôi, như cấp số nhân của những nhầm lẫn, sao lòng ta không chịu hót, đêm ngạt ngào hương mộc, bàn chân em thơm mùi lúa, anh phải đâu chỉ ngắm sao trời, còn ngắm một cánh thư rơi
 
Xuống, từ lòng chia hai dạo đó, trong bão táp trở về, chén trà thơm nâng ngang mặt, hoa sen hồng long lanh mặt nước, cho số phận quỷ quái chưa đi hết một con đường đã hóa rồ hóa dại, các bạn yêu mến của tôi hãy dừng lại, mặt trời lên mỗi ngày, cầm tay giữ cành cho anh hái một nhành trái chua xen trái ngọt
 
Đêm bạc đầu về ngủ dưới trăng sao, nghe cu gáy trong vườn mít, nghe tiếng em rửa bát sau nhà ngang, hoa cải vàng tháng chạp, quê mình còn nghèo lắm nhưng má hồng đã thắm, đời hư ảo mặn nồng như rượu mới cất, gió reo xiết bên ngoài nhưng mùa bên trong đã chín, bầy ong dẫn thơ về
 
Tiếng trẻ khóc oe oe trong xóm cũ, cho những chữ trên trang vở học trò, hẩm hiu sáng dưới ngọn đèn, cho một giọt lệ cũng chia đôi, cho thánh thần cũng bưng mặt, trước đám cưới muộn của đôi ta, cho cánh chim sa ngoài bãi cát, cho một nhân dân đã khánh kiệt lòng tin, nay trở lại, cho những kẻ đa tình về nhận lỗi, được tha thứ, cho vòng ngọc đi tìm cánh tay, để những cách trở thôi mồ côi dặm đường thăm thẳm, cuộc ly hương dồn xuống vai ta như áo quần nặng trĩu trên dây phơi quần áo, cho gió mới, trăng lên, mặt trời bớt gay gắt, cho người đi xa lắc nhớ về nhau
 
Tình yêu có bao giờ dễ dàng đâu, cầm tay em nhìn đường gân xanh nổi, biết mình đi xa quá lâu
 
Cho nhân dân tôi, người ôm lấy nhau, xóm làng vui trở lại, cho mùa xuân về, những hoa văn trên chuông chùa sáng lại, cho những tượng Phật trăm tay nghìn mắt chưa nhìn thấy cuộc đời nay nhìn thấy tình yêu và tội lỗi, cho thơ và đời, cho lục bát bay vào ca dao, cho hồn bách thảo về giữa kinh đô, cho dân tộc cưu mang những tâm hồn lưu lạc, cho mùa hạn xé nát cánh rừng những mái nhà lợp chưa xong, cho chiến tranh dập nát linh hồn, cho màu máu sâu thăm thẳm trên ngực người sống sót, cho kẻ chống chọi cám dỗ, cho vàng ngọc có người gìn giữ, cho ngọn đèn khuya hiu hắt
 
Chiếu sáng giường người đàn bà đau bụng đẻ, cho bom đạn đã hết mà hơi cay còn ngột ngạt, cho những người thiếu nữ thôn làng mắt đong đưa, cho những kẻ khất mãi nợ với cuộc đời, chưa trả hết, mà trời đã chiều, cho chiếc võng anh giăng ra trong hoàng hôn, có người trở về nằm nghe bụi hoa lài thơm lừng, cho tuyết nơi xứ lạ cũng chia phần với anh một nửa, cho cuộc éo le của đời anh, cho má đỏ môi son, những lời vu vơ bên rào bông giấy, người im lặng quay đi, ngực phập phồng như mùa thu cũ, cho những kẻ ôm hoa vào lòng
 
Mà dâng lên nỗi buồn, cho cuộc lữ hành, cho nhành cây run lên trong mùa hạn, bao khát vọng của người đi trước, cho cổ tích xa vời trở lại, lá ngô đồng rụng xuống hòn bi của tuổi thơ, cho cá trong ao giật mình khi em đi qua, cho thánh đường rách nát tiếng chuông lọc hồn ta sáng lạn, những hươu nai ngơ ngác trở về bên suối, như hôm nay anh trở về với em, nhưng anh có điều muốn hỏi.
 
Nguyễn Đức Tùng
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cõi thơ Viên Linh là cõi nhân sinh đầy hệ lụy của định mệnh. Định mệnh của một dân tộc điêu linh, lưu lạc. Định mệnh của con người bé nhỏ và yếu ớt trong dòng chảy cuồng lưu của kiếp sống. Định mệnh của tình yêu mệt mỏi, chán chường và bất trắc. Thơ Viên Linh là một biểu hiệu cho Con Người như là một hữu-thể-tại-thế với tất cả những khổ đau và hoan lạc. Ông vừa tạ thế hôm cuối tháng Ba vừa rồi, Việt Báo trân trọng đăng lại một số ít thơ của ông như một nén tâm hương gửi đến người Thi Sĩ quá cố.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một vị học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền và đã bị cầm tù trong nhiều năm. Năm 1998, Hòa Thượng được tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards. Hòa Thượng là Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Hòa Thượng thông thạo tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Hòa Thượng được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật, được coi là nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đã soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển.
Đó là tựa đề một bài viết của nhà thơ Phan Tấn Hải, và đây là kết của bài: “Chữ nghĩa không vô ích. Chúng ta trong cõi này hãy rủ nhau làm thơ, đọc thơ, ngâm thơ, in thơ, hát thơ… Nếu chúng ta không đủ sức nương vào thơ để ngộ nhập tri kiến Phật, và nếu chúng ta cũng không có đủ sức mạnh của hát thơ để chữa sản nạn như thời Vua Hùng Vương, ít nhất thơ cũng giúp chúng ta giảm được những đau đớn của trần gian này, kể cả khi buộc phải nghe tới bốn dòng thơ ly biệt tương tự của Cha Rồng và Mẹ Tiên thời lập quốc dân tộc Việt Nam (Ta là giống Rồng / Mình là giống Tiên / Thủy thổ khắc nhau / Không ở cùng được.) Nàng thơ ơi, hãy cứu lấy trần gian này. Hãy biến tất cả những trận mưa bom trên trần gian này thành các trận mưa thơ…” (Phan Tấn Hải, Thơ sẽ chữa lành thế giới
Ta về một cõi tâm không / Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn / Còn yêu một thuở đi hoang / Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya / Ta đi dẫm nắng bên đèo / Nghe đau hồn cỏ rủ theo bóng chiều / Nguyên sơ là dáng yêu kiều / Bỗng đâu đảo lộn tịch liêu bến bờ / Còn đây góc núi trơ vơ / Nghìn năm ta mãi đứng chờ đỉnh cao
Nhà văn Jon Fosse vừa đoạt giải Nobel Văn chương về kịch nghệ năm nay, 2023. Ngoài ra, ông cũng nổi tiếng trong lãnh vực thơ và truyện. Tác phẩm của ông được dịch ra khoảng 50 ngôn ngữ. Tìm hiểu về mục đích sáng tác, ông cho biết, “I hope they can find a kind of peace in, or from, my writing.” (Tôi hy vọng người đọc có thể tìm thấy sự bình an trong các tác phẩm của tôi.) Tác phẩm nổi tiếng với nội dung sâu đậm của ông là dãy “Septology”. Đây là một từ vựng mới, có ý nghĩa là một loạt bảy cuốn sách. Có lẽ, Septology phát xuất từ “Heptalogy” mà ví dụ rõ rệt nhất là dãy tác phẩm Harry Potter.
Mùa thứ ba trong năm đã chớm về. Autumn ngoài nghĩa mùa thu, còn mang nghĩa ẩn dụ là chỉ lúc xế chiều, lúc ngày sắp tàn, là mùa mà ban ngày ngắn và dần lạnh hơn. Bên cạnh hình ảnh biểu tượng là mùa lá rụng, lại cũng là mùa phần lớn trái cây được thu hoạch, vì gắn với đời sống thiên nhiên này mà từ rất lâu văn hóa Tây phương đã nhân cách hóa mùa thu là người phụ nữ trẻ đẹp đầy sức sống với mái tóc gắn đầy lá hoa quả chín, là hình ảnh vừa nên thơ vừa chứa đựng sức sống diệu kỳ của mùa gặt hái.
Nhà phê bình văn học Trung Quốc đời nhà Thanh, Viên Mai, có nói, “Làm người không nên có cái tôi, nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Thi hào Tagore cho rằng, “Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ảnh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong”. Cả hai nhận định này đều đề cao cái Tôi-làm-Thơ, và cách biểu hiện những thuộc tính về Tôi ấy như thế nào trên ngôn từ thơ. Có hai yếu tố không ai phủ nhận được là cảm xúc và sáng tạo, chính hai yếu tố này định hình phong cách của nhà thơ. Cảm xúc thực được chuyển tải qua thi ngữ, thi ảnh mới mẻ, cá biệt, thì thơ càng có sắc thái nổi bật để lại dấu ấn riêng trong lòng người đọc, dường như không quá để nói rằng điều này định đoạt sinh mệnh một bài thơ. Thơ chỉ thực sự sống khi nó phản ảnh được bản ngã độc đáo của nhà thơ.
Tháng 7. Mùa hè đang gửi đến đây một sứ giả vô cùng dễ thương. Phượng tím. Đi đâu chợt cũng bị màu tím thơ mộng ấy níu mắt nhìn, làm dịu đi cái nóng chói chan. Bạn đang ở đâu, buổi sáng rực nắng đi chơi hay chiều mệt nhoài sau giờ làm việc, hay tối, hay khuya, hàn huyên bạn thiết, hoặc giả nói chuyện một mình, tất cả những tâm trạng thời gian đó, bạn sẽ tìm thấy được trong Căn phòng chứa đựng mọi khoảnh khắc, nơi các nhà thơ Hoàng Trúc Ly, Duy Thanh, Nguyễn Thùy Song Thanh, Tomas Transtromer, Âu Thị Phục An, Chiêu Anh Nguyễn, Nguyễn thị Khánh Minh, Trương Đình Phượng, Inrasara, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Xuân Thiệp, đọc cho bạn nghe những vần thơ mang âm hưởng chói chan của mặt trời mùa hạ, hoang mạc gai xương rồng, mật ngọt của thiên nhiên…
Một mùa hè, khi chàng vẫn còn trẻ, chàng đứng bên cửa sổ và tự hỏi họ đã đi đâu, những người đàn bà ngồi bên biển, ngắm nhìn, chờ đợi một điều gì đó không bao giờ đến, gió nhẹ phả vào da họ, gửi những lọn tóc xoã ngang môi họ. Họ đã ngã xuống từ mùa nào, họ đã lạc lối từ ý niệm nào của nét yêu kiều? Đã lâu rồi kể từ khi chàng nhìn thấy họ trong vẻ lộng lẫy đơn độc, trĩu nặng trong nỗi biếng lười, dệt nên câu chuyện buồn về niềm hy vọng bị bỏ rơi. Đấy là mùa hè chàng lang thang trong màn đêm kỳ vĩ, trong biển tối, như thể lần đầu tiên, để tự toả ra ánh sáng của chính mình, nhưng những gì chàng toả ra là bóng tối, những gì chàng tìm thấy là đêm.
… Đã bao năm rồi, biết bao nhiêu nước chảy qua cầu, có quá nhiều điều để không thể nào quên. Ngay trong tù đày, những hình ảnh hồi tưởng chưa bao giờ là cuộc duyệt binh vĩ đại đầy màu sắc và ồn ào của ngày Quân Lực; mà luôn luôn là những bước chân diễn hành thầm lặng của một tiểu đội lính vô danh ở ngày giờ cuối cùng của một thành phố trước khi mất tên Sài Gòn. Người chuẩn úy ấy bây giờ ở đâu, trong một trại cải tạo nào, còn sống hay đã chết, số phận những người lính can đảm kỷ luật tới giờ phút chót ấy bây giờ ra sao, cũng không ai được biết. Liệu có thêm được một dòng chữ nào giữa những trang quân sử viết dở dang để nói về cuộc diễn binh kỳ lạ cấp tiểu đội mang biểu tượng hào hùng của quân lực ở ngày giờ cuối cùng trước khi cả toàn quân tan hàng rã ngũ... (Ngô Thế Vinh, trong tập truyện Mặt Trận Sài Gòn.)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.