Thơ Khai Bút

24/01/202500:00:00(Xem: 2488)
 
Duy Thanh
Minh họa: Duy Thanh
 
1.
Hãy yêu tôi
Mặt đất nói
Hãy yêu tôi
Một ngày tôi nghe tiếng nói
Khi tình cờ đi ngang qua mặt đất
 
2.
Im lặng
Như căn nhà
Nơi kẻ hiếp dâm vừa rời bỏ
 
3.
Nếu tôi có một nửa tự do của bạn
Tôi sẽ về nhà
 
Làm cái cây đứng trong sân trổ hoa
Hay tốt hơn là, khúc gỗ dưới mưa xuân.
 
4.
Mang một ấm trà
Đi qua hai năm
Nước réo sôi
 
5.
Khi nào hết chiến tranh
Tôi sẽ đi dọc sông Ba Lòng
 
Tới dưới chân núi Đakrong
Để đón mẹ tôi về
 
6.
Sau cuộc tử hình
Người mẹ mang con về nhà
Không phải đứa con trai đã chết
Chôn vùi huyệt mộ đêm qua
 
Người mẹ mang con về nhà
Như mang vầng trăng qua cửa sổ
Cái chết chiếu khắp căn phòng
Lạnh lẽo, sáng như trăng
 
7.
Có một khoảnh khắc
Bàn tay giữ anh lại
 
Giữ thật chặt
Như một dấu phẩy
 
Giữ một câu
Anh không ngoái lại
 
Chỉ thấy bóng em trên mặt nước
Trước khi anh được nhấc lên
 
8.
Chỉ bằng cách lắng nghe
Anh nghe tiếng nước xoáy
Nơi sáu dòng sông giao nhau
Bến Lục đầu
 
Chỉ bằng cách lắng nghe
Anh nghe tiếng chân em bước trong mưa
Nhưng khi anh ra mở cửa
Chỉ có chùm chìa khóa treo giữa trời
 
9.
Một người ca sĩ
Chết trong trận đánh
Xương hàm mở há ra
 
Cô vẫn còn hát
Khi viên đạn bay qua
Sâu dưới mặt đất
 
10.
Cho nhân dân tôi, thức dậy trong bóng tối, những người hát bài ca im lặng, những người than thở trong im lặng, những người nổi giận trong im lặng, những người yêu nhau trong im lặng, lời cầu
 
Nguyện cho nhân dân tôi, những người đi trên đường, chạy tất bật từ sáng đến tối, cho bữa ăn của người nghèo đói, hít thở khói và bụi, những người già trước tuổi, những người không bao giờ biết hát, những người không bao giờ biết cười, những người không bao giờ biết nói dối
 
Cho người đàn bà bị hãm hiếp, cho căn nhà đầy bóng tối, cho kẻ bị ruồng bỏ, cho những tội ác chưa bao giờ bị gọi tên, cho đêm xuống, cho mái tóc phủ đầy sương của người bán dạo tiếng rao khuya, vỉa hè, cho những mùa hè nóng rẫy mồ hôi, tiếng sấu rơi, con chó con đi lạc
 
Cho máu người phụ nữ, chảy giữa hai đùi, cho ca khúc phản đối chiến tranh, cho những người đi ngàn dặm đòi lại đất, cho kẻ mất nhà mất cửa đi giữa những lâu đài dinh thự, cho những chữ cái bị mờ đi trong ký ức, cho cuộc phân ly trên đường bay dân tộc
 
Cho một nhân dân chưa biết khóc, cho những cuộc hôn phối dịu dàng, những hạnh phúc muộn màng của người lính cũ, cho áo lính bạc màu, nhạc bolero, người mù chơi đàn, lời tiên tri giả dối, tiếng chuông đổ vô hồi trên mặt nước
 
Cho nhân dân như người góa phụ đi thêm bước nữa, cho cánh cửa nở trắng hoa ti-gôn, ngã ba đường đến trễ không gặp người thương, những nhà văn hì hục viết trang văn lừa dối, cho gió lùa cánh cửa, những nắm tay không hề biết đấm xuống mặt bàn, cho tung tóe lên những trò lừa đảo, tình yêu hư ảo như khách lạ, những kẻ sơ tán đời mình vào chăn gối, ván bài nhân loại lật ngửa
 
Cho kẻ ngây ngất vì hòa bình, tưởng rằng mọi tội lỗi kết thúc, chúng ta yêu lí tưởng mà sao khốn khổ, đi qua gần hết cuộc đời trong sạch lại nhỡ để thua khánh kiệt một lần như rừng lửa cháy, cho kẻ lạc đường trở về tìm những tâm hồn đọng lại suối khe, cho những đêm trăng tự vượt lên chính mình, những bồ câu nay trở thành ác điểu, cho chớp bể gặp lại mưa nguồn, cho pháp trường
 
Ván bài dân tộc xoay nghiêng, kẻ bạc đầu về ngủ lại trên hiên nhà, nhìn mây trắng đuổi nhau như hoa lay mộng dữ, như những chữ bị cắt làm đôi, như cấp số nhân của những nhầm lẫn, sao lòng ta không chịu hót, đêm ngạt ngào hương mộc, bàn chân em thơm mùi lúa, anh phải đâu chỉ ngắm sao trời, còn ngắm một cánh thư rơi
 
Xuống, từ lòng chia hai dạo đó, trong bão táp trở về, chén trà thơm nâng ngang mặt, hoa sen hồng long lanh mặt nước, cho số phận quỷ quái chưa đi hết một con đường đã hóa rồ hóa dại, các bạn yêu mến của tôi hãy dừng lại, mặt trời lên mỗi ngày, cầm tay giữ cành cho anh hái một nhành trái chua xen trái ngọt
 
Đêm bạc đầu về ngủ dưới trăng sao, nghe cu gáy trong vườn mít, nghe tiếng em rửa bát sau nhà ngang, hoa cải vàng tháng chạp, quê mình còn nghèo lắm nhưng má hồng đã thắm, đời hư ảo mặn nồng như rượu mới cất, gió reo xiết bên ngoài nhưng mùa bên trong đã chín, bầy ong dẫn thơ về
 
Tiếng trẻ khóc oe oe trong xóm cũ, cho những chữ trên trang vở học trò, hẩm hiu sáng dưới ngọn đèn, cho một giọt lệ cũng chia đôi, cho thánh thần cũng bưng mặt, trước đám cưới muộn của đôi ta, cho cánh chim sa ngoài bãi cát, cho một nhân dân đã khánh kiệt lòng tin, nay trở lại, cho những kẻ đa tình về nhận lỗi, được tha thứ, cho vòng ngọc đi tìm cánh tay, để những cách trở thôi mồ côi dặm đường thăm thẳm, cuộc ly hương dồn xuống vai ta như áo quần nặng trĩu trên dây phơi quần áo, cho gió mới, trăng lên, mặt trời bớt gay gắt, cho người đi xa lắc nhớ về nhau
 
Tình yêu có bao giờ dễ dàng đâu, cầm tay em nhìn đường gân xanh nổi, biết mình đi xa quá lâu
 
Cho nhân dân tôi, người ôm lấy nhau, xóm làng vui trở lại, cho mùa xuân về, những hoa văn trên chuông chùa sáng lại, cho những tượng Phật trăm tay nghìn mắt chưa nhìn thấy cuộc đời nay nhìn thấy tình yêu và tội lỗi, cho thơ và đời, cho lục bát bay vào ca dao, cho hồn bách thảo về giữa kinh đô, cho dân tộc cưu mang những tâm hồn lưu lạc, cho mùa hạn xé nát cánh rừng những mái nhà lợp chưa xong, cho chiến tranh dập nát linh hồn, cho màu máu sâu thăm thẳm trên ngực người sống sót, cho kẻ chống chọi cám dỗ, cho vàng ngọc có người gìn giữ, cho ngọn đèn khuya hiu hắt
 
Chiếu sáng giường người đàn bà đau bụng đẻ, cho bom đạn đã hết mà hơi cay còn ngột ngạt, cho những người thiếu nữ thôn làng mắt đong đưa, cho những kẻ khất mãi nợ với cuộc đời, chưa trả hết, mà trời đã chiều, cho chiếc võng anh giăng ra trong hoàng hôn, có người trở về nằm nghe bụi hoa lài thơm lừng, cho tuyết nơi xứ lạ cũng chia phần với anh một nửa, cho cuộc éo le của đời anh, cho má đỏ môi son, những lời vu vơ bên rào bông giấy, người im lặng quay đi, ngực phập phồng như mùa thu cũ, cho những kẻ ôm hoa vào lòng
 
Mà dâng lên nỗi buồn, cho cuộc lữ hành, cho nhành cây run lên trong mùa hạn, bao khát vọng của người đi trước, cho cổ tích xa vời trở lại, lá ngô đồng rụng xuống hòn bi của tuổi thơ, cho cá trong ao giật mình khi em đi qua, cho thánh đường rách nát tiếng chuông lọc hồn ta sáng lạn, những hươu nai ngơ ngác trở về bên suối, như hôm nay anh trở về với em, nhưng anh có điều muốn hỏi.
 
Nguyễn Đức Tùng
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một cõi mênh mông các cảnh giới. Cũng là một chiếc kén bé nhỏ gói bí ẩn về giấc mơ một ngày kia sẽ tung ra muôn trùng tơ quấn quít hiện thực. Một khung cửa khép với chờ đợi, với cô lẻ số phận. Một bầu trời cao rộng với những đường bay mạnh mẽ hoan lạc của cánh chim tự do. Một mặt biển bị xao động bởi những con sóng ngầm làm ngạc nhiên thinh lặng của vực sâu. Là cánh cửa được mở tung bởi ngôn ngữ như những tiếng gõ dồn dập. Là bức tường bức phá bởi sức mạnh của ý tưởng. Là con đường hiểm hóc hay mượt cỏ, những bước chân vẫn đi tới đi tới. Ở đó bạn nghe được khát vọng tìm hạnh phúc chân thực như trở về cội nguồn tâm sâu thẳm. Ở đó bạn sẽ thấy cảm xúc mình bung ra như sắc mầu của chiếc kính vạn hoa. Ở đó, những con chữ như nam châm hút cảm xúc người đọc. Ở đó, từ trường say đắm thơ mộng của Đinh Thị Như Thúy, Phạm Thị Ngọc Liên, Nguyễn Thùy Song Thanh, Vũ Quỳnh Hương.
Gerald McCarthy vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ năm 17 tuổi, phục vụ tại Việt Nam trong hai năm 1966-1967, trong Tiểu Đoàn 1 Công Binh Chiến Đấu Hoa Kỳ (1st Combat Engineer Battalion) tại Chu Lai và rồi tại Đà Nẵng. Sau một nhiệm kỳ trong quân ngũ, McCarthy đào ngũ, bị bắt vào một nhà tù dân sự rồi chuyển vào quân lao. Những bài thơ đầu tiên của ông gom lại ấn hành trong thi tập War Story, ghi lại các suy nghĩ với kinh nghiệm tại Việt Nam. Sau đó, ông tham gia các hoạt động phản chiến và in nhiều thi tập khác. Nhà thơ D.F. Brown sinh năm 1948 tại Springfield, Missouri. Ông phục vụ trong Lục quân Hoa Kỳ từ 1968 tới 1977, trong đó từng giữ nhiệm vụ lính cứu thương trong tiểu đoàn Bravo, 1/14th Infantry tại chiến trường Việt Nam các năm 1969–70. Năm 1984, Brown in tập thơ đầu tay, nhan đề Returning Fire, trong đó, bài thơ ngắn nhất có nhan đề ghi bằng tiếng Pháp “L’Eclatante Victoire de Khe Sanh” (Chiến Thắng Huy Hoàng tại Khe Sanh).
Nhã Ca với tập thơ đầu tay Nhã Ca Mới, đoạt giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc về thơ năm 1965. Giải Khăn Sô Cho Huế (1969) đoạt Giải Văn Chương Toàn Quốc về văn năm 1970, và Tuệ Mai đã đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc về thơ năm 1966 với thi phẩm Không Bờ Bến. Thơ. Họ là cột mốc đánh dấu cho sự chuyển mình khai phá bứt ra khỏi phong cách thi ca tiền chiến. Thi ngữ, thi ảnh nơi họ khơi gợi ở người đọc cảm xúc mới mẻ, thi pháp tuy còn giữ nhiều về thể luật của các loại thơ vần điệu, nhưng được chở dưới nhạc điệu cấu tứ mới – kể cả lục bát – nên cũng có thể nói họ đã cách tân những thể loại thơ này vào thời đó, đặc biệt, ở thể loại tự do, với Nhã Ca, một luồng gió mạnh thổi bật gốc rễ của trói buộc ngôn từ, định kiến.
Tôi đã đọc thơ Nguyễn Quốc Thái từ hơn một thập niên. Và nhiều người đã đọc thơ anh hơn một nửa thế kỷ. Hình như, tôi chưa thấy dòng thơ nào vui của anh. Và ngay cả những dòng thơ có thể được suy đoán là vui, cũng vẫn có một nỗi buồn thần bí trong đó – nơi đây, đành nói là thần bí, vì không giải thích minh bạch được. Cũng có thể vì tôi thấy nét mặt anh lúc nào cũng buồn. Đó là những lần tôi được gặp anh, khi anh có dịp thăm Quận Cam. Cũng có thể vì Nguyễn Quốc Thái là một nhà thơ ra đời trước tôi khoảng một thập niên, thuộc một thế hệ có nhiều chia ly hơn là gặp gỡ, nhiều tan vỡ hơn là hàn gắn. Cũng có thể vì một vài câu thơ của Nguyễn Quốc Thái, tôi đã đọc qua, và chợt nhớ một vài ý trong đó. Như bài thơ có nhan đề Todo Passa. Anh làm bài thơ này từ Sài Gòn, vào tháng 12 năm 2017. Trích năm dòng đầu như sau. / Một mình tôi với những câu thơ đau đớn mới/ Lời vỗ về an ủi như tiếng gió lùa qua bến bờ lau sậy / Tôi ngã xuống như một hẹn ước dở dang ...
thở lên cầu lộng chân mây/ loa xa nhánh nữa cởi vai sông triền / từng say đắm rượu bách niên / cây nhân gian sẽ nhện phiền muộn giăng / bím thư sinh bới lọn mầm / lưới yêu mị chải lệch tâm lược ngà / nhá nhem đóm lội tịch tà / cái hôn ám cũ tách ra giữa vời
Một nhà phê bình văn học ngoại quốc đã nói đại ý: Nếu các nhà thơ hiện đại không có độc giả, họ có thể tạo ra độc giả. Đây thuộc vào phần lớn thi tài của nhà thơ. Để có được một bài thơ ra thơ, nghĩa là, được sinh ra từ cảm xúc thực, có sự mới lạ của chữ và nghĩa, và ít nhất là có nhạc thơ. Thơ hiện đại có khi nghiêng về lý sự mà coi nhẹ cảm xúc. Làm thế nào để một bài thơ triết lý, suy tư, gây được rung động Thơ nơi người đọc? Thơ Nguyên Yên có một gợi mở như thế. Thơ của cô trầm tĩnh, đầy những suy tư triết lý, và táo bạo một cách sáng suốt để không phá đi thẩm mỹ từ của thi ngữ. Cô tôn trọng thi ngữ, cô triết lý bằng cảm xúc thơ (là khi trái tim phỉnh cái đầu… ), và vì vậy dòng thơ hiện đại của cô bật lên được nhạc chữ rất riêng của thơ tự do, đọc lên, có được cảm xúc đọc một bài thơ, cảm được cái mới lạ của chữ, nghĩa, hình ảnh. Suy tư mà vẫn ánh lên nét thơ mộng, lãng mạn, đặc biệt là những bất ngờ ở cuối bài thơ. Đó là những yếu tố mà thơ Nguyên Yên đã chinh phục được người đọ
Em đi để lại mây ngàn quyện vào chuông mõ, phím đàn nửa đêm Thương anh không ngủ giấc thiền nụ cười em gửi ngoài hiên cúng dường Em đi phả lại mùi hương ướp làn gió sớm, thơm đường mây trưa Thương anh trăm nắng ngàn mưa lái đò cổ độ giúp đưa qua bờ.
em dáng mới tháng giêng về ngụ/ giọt bích ngần thư thái vô ưu/ ngày nguyên đán phô nguyên lời gió/ tóc thơm mây rạng rỡ ca từ
Trong mơ tưởng của tôi/ Âm thanh những sợi mỏng nhịp nhàng. Neo trên cùng một nhịp. Ngày và Đêm. Giấc mơ và thành tựu. Anh và em./ Trong mơ tưởng của tôi / Ánh sáng rực rỡ sóng, run trong ngực viên đá bổn mạng đại dương xanh. Nhốt vào sâu thẳm tiếng đập sóng gió. Tôi trôi. Phập phồng điểm hẹn. Nhịp vui trái tim đẩy dòng chảy thời gian rộn ràng trong mạch máu./ Trong mơ tưởng của em. Thương khó một mùa gặp gỡ. Dẫu bước chân em giờ như chiếc lá khô lăn theo năm tháng. Mộng mơ là cuống mỏng manh. Nuối nhìn mắt gió.
Các nhà thơ nữ Việt Nam đầu thế kỷ 21 đã góp phần tạo nên sự sinh động, thay đổi diện mạo thi ca Việt Nam. Thế giới ngày nay như một tảng băng đang trôi dần về vực lửa, nơi đó ranh giới của thiện ác phải trái trở nên mù mờ, lòng người bị phân chia bởi trăm ngàn biên giới, mọi niềm tin thành nghi hoặc. Trên tảng băng đang tan ấy, thi ca của lớp nhà thơ nữ này như một bến bờ để neo lại những phân rã, để hiệu đính lại những phù phiếm, sai lầm của định kiến, bằng cái nhìn sắc xảo, thực tế, táo bạo, thách thức. Thi pháp hiện đại, được thể hiện qua ngôn từ mới mẻ và hình ảnh đầy sáng tạo. Sức thuyết phục của họ dường như nằm ở then chốt Cảm Xúc Thi Ca, một thứ cảm xúc dịu dàng của nhân ái, tràn trề của tự do, kiêu hãnh của độc lập, ngang tàng của bức phá, cho người đọc thấy được một cái Tôi-Nữ-Tính đầy tự tin, lấp lánh nữ quyền. Nói có vẻ nghịch lý, nhưng, chính niềm tự tin, phóng khoáng ấy lại khiến thơ của họ mang chất thơ ngây và gợi cảm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.