Thơ Khai Bút

24/01/202500:00:00(Xem: 2487)
 
Duy Thanh
Minh họa: Duy Thanh
 
1.
Hãy yêu tôi
Mặt đất nói
Hãy yêu tôi
Một ngày tôi nghe tiếng nói
Khi tình cờ đi ngang qua mặt đất
 
2.
Im lặng
Như căn nhà
Nơi kẻ hiếp dâm vừa rời bỏ
 
3.
Nếu tôi có một nửa tự do của bạn
Tôi sẽ về nhà
 
Làm cái cây đứng trong sân trổ hoa
Hay tốt hơn là, khúc gỗ dưới mưa xuân.
 
4.
Mang một ấm trà
Đi qua hai năm
Nước réo sôi
 
5.
Khi nào hết chiến tranh
Tôi sẽ đi dọc sông Ba Lòng
 
Tới dưới chân núi Đakrong
Để đón mẹ tôi về
 
6.
Sau cuộc tử hình
Người mẹ mang con về nhà
Không phải đứa con trai đã chết
Chôn vùi huyệt mộ đêm qua
 
Người mẹ mang con về nhà
Như mang vầng trăng qua cửa sổ
Cái chết chiếu khắp căn phòng
Lạnh lẽo, sáng như trăng
 
7.
Có một khoảnh khắc
Bàn tay giữ anh lại
 
Giữ thật chặt
Như một dấu phẩy
 
Giữ một câu
Anh không ngoái lại
 
Chỉ thấy bóng em trên mặt nước
Trước khi anh được nhấc lên
 
8.
Chỉ bằng cách lắng nghe
Anh nghe tiếng nước xoáy
Nơi sáu dòng sông giao nhau
Bến Lục đầu
 
Chỉ bằng cách lắng nghe
Anh nghe tiếng chân em bước trong mưa
Nhưng khi anh ra mở cửa
Chỉ có chùm chìa khóa treo giữa trời
 
9.
Một người ca sĩ
Chết trong trận đánh
Xương hàm mở há ra
 
Cô vẫn còn hát
Khi viên đạn bay qua
Sâu dưới mặt đất
 
10.
Cho nhân dân tôi, thức dậy trong bóng tối, những người hát bài ca im lặng, những người than thở trong im lặng, những người nổi giận trong im lặng, những người yêu nhau trong im lặng, lời cầu
 
Nguyện cho nhân dân tôi, những người đi trên đường, chạy tất bật từ sáng đến tối, cho bữa ăn của người nghèo đói, hít thở khói và bụi, những người già trước tuổi, những người không bao giờ biết hát, những người không bao giờ biết cười, những người không bao giờ biết nói dối
 
Cho người đàn bà bị hãm hiếp, cho căn nhà đầy bóng tối, cho kẻ bị ruồng bỏ, cho những tội ác chưa bao giờ bị gọi tên, cho đêm xuống, cho mái tóc phủ đầy sương của người bán dạo tiếng rao khuya, vỉa hè, cho những mùa hè nóng rẫy mồ hôi, tiếng sấu rơi, con chó con đi lạc
 
Cho máu người phụ nữ, chảy giữa hai đùi, cho ca khúc phản đối chiến tranh, cho những người đi ngàn dặm đòi lại đất, cho kẻ mất nhà mất cửa đi giữa những lâu đài dinh thự, cho những chữ cái bị mờ đi trong ký ức, cho cuộc phân ly trên đường bay dân tộc
 
Cho một nhân dân chưa biết khóc, cho những cuộc hôn phối dịu dàng, những hạnh phúc muộn màng của người lính cũ, cho áo lính bạc màu, nhạc bolero, người mù chơi đàn, lời tiên tri giả dối, tiếng chuông đổ vô hồi trên mặt nước
 
Cho nhân dân như người góa phụ đi thêm bước nữa, cho cánh cửa nở trắng hoa ti-gôn, ngã ba đường đến trễ không gặp người thương, những nhà văn hì hục viết trang văn lừa dối, cho gió lùa cánh cửa, những nắm tay không hề biết đấm xuống mặt bàn, cho tung tóe lên những trò lừa đảo, tình yêu hư ảo như khách lạ, những kẻ sơ tán đời mình vào chăn gối, ván bài nhân loại lật ngửa
 
Cho kẻ ngây ngất vì hòa bình, tưởng rằng mọi tội lỗi kết thúc, chúng ta yêu lí tưởng mà sao khốn khổ, đi qua gần hết cuộc đời trong sạch lại nhỡ để thua khánh kiệt một lần như rừng lửa cháy, cho kẻ lạc đường trở về tìm những tâm hồn đọng lại suối khe, cho những đêm trăng tự vượt lên chính mình, những bồ câu nay trở thành ác điểu, cho chớp bể gặp lại mưa nguồn, cho pháp trường
 
Ván bài dân tộc xoay nghiêng, kẻ bạc đầu về ngủ lại trên hiên nhà, nhìn mây trắng đuổi nhau như hoa lay mộng dữ, như những chữ bị cắt làm đôi, như cấp số nhân của những nhầm lẫn, sao lòng ta không chịu hót, đêm ngạt ngào hương mộc, bàn chân em thơm mùi lúa, anh phải đâu chỉ ngắm sao trời, còn ngắm một cánh thư rơi
 
Xuống, từ lòng chia hai dạo đó, trong bão táp trở về, chén trà thơm nâng ngang mặt, hoa sen hồng long lanh mặt nước, cho số phận quỷ quái chưa đi hết một con đường đã hóa rồ hóa dại, các bạn yêu mến của tôi hãy dừng lại, mặt trời lên mỗi ngày, cầm tay giữ cành cho anh hái một nhành trái chua xen trái ngọt
 
Đêm bạc đầu về ngủ dưới trăng sao, nghe cu gáy trong vườn mít, nghe tiếng em rửa bát sau nhà ngang, hoa cải vàng tháng chạp, quê mình còn nghèo lắm nhưng má hồng đã thắm, đời hư ảo mặn nồng như rượu mới cất, gió reo xiết bên ngoài nhưng mùa bên trong đã chín, bầy ong dẫn thơ về
 
Tiếng trẻ khóc oe oe trong xóm cũ, cho những chữ trên trang vở học trò, hẩm hiu sáng dưới ngọn đèn, cho một giọt lệ cũng chia đôi, cho thánh thần cũng bưng mặt, trước đám cưới muộn của đôi ta, cho cánh chim sa ngoài bãi cát, cho một nhân dân đã khánh kiệt lòng tin, nay trở lại, cho những kẻ đa tình về nhận lỗi, được tha thứ, cho vòng ngọc đi tìm cánh tay, để những cách trở thôi mồ côi dặm đường thăm thẳm, cuộc ly hương dồn xuống vai ta như áo quần nặng trĩu trên dây phơi quần áo, cho gió mới, trăng lên, mặt trời bớt gay gắt, cho người đi xa lắc nhớ về nhau
 
Tình yêu có bao giờ dễ dàng đâu, cầm tay em nhìn đường gân xanh nổi, biết mình đi xa quá lâu
 
Cho nhân dân tôi, người ôm lấy nhau, xóm làng vui trở lại, cho mùa xuân về, những hoa văn trên chuông chùa sáng lại, cho những tượng Phật trăm tay nghìn mắt chưa nhìn thấy cuộc đời nay nhìn thấy tình yêu và tội lỗi, cho thơ và đời, cho lục bát bay vào ca dao, cho hồn bách thảo về giữa kinh đô, cho dân tộc cưu mang những tâm hồn lưu lạc, cho mùa hạn xé nát cánh rừng những mái nhà lợp chưa xong, cho chiến tranh dập nát linh hồn, cho màu máu sâu thăm thẳm trên ngực người sống sót, cho kẻ chống chọi cám dỗ, cho vàng ngọc có người gìn giữ, cho ngọn đèn khuya hiu hắt
 
Chiếu sáng giường người đàn bà đau bụng đẻ, cho bom đạn đã hết mà hơi cay còn ngột ngạt, cho những người thiếu nữ thôn làng mắt đong đưa, cho những kẻ khất mãi nợ với cuộc đời, chưa trả hết, mà trời đã chiều, cho chiếc võng anh giăng ra trong hoàng hôn, có người trở về nằm nghe bụi hoa lài thơm lừng, cho tuyết nơi xứ lạ cũng chia phần với anh một nửa, cho cuộc éo le của đời anh, cho má đỏ môi son, những lời vu vơ bên rào bông giấy, người im lặng quay đi, ngực phập phồng như mùa thu cũ, cho những kẻ ôm hoa vào lòng
 
Mà dâng lên nỗi buồn, cho cuộc lữ hành, cho nhành cây run lên trong mùa hạn, bao khát vọng của người đi trước, cho cổ tích xa vời trở lại, lá ngô đồng rụng xuống hòn bi của tuổi thơ, cho cá trong ao giật mình khi em đi qua, cho thánh đường rách nát tiếng chuông lọc hồn ta sáng lạn, những hươu nai ngơ ngác trở về bên suối, như hôm nay anh trở về với em, nhưng anh có điều muốn hỏi.
 
Nguyễn Đức Tùng
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một chút gì gợn lên nơi mùi cà phê sáng, nơi tách trà nhâm nhi buổi xế chiều, nơi ly vang đỏ nồng đêm tối, làm cồn cào nhớ đến câu thơ đã đọc từ lâu lắm, thơ xưa chăng, nhưng sao cái rung động hôm nay về nó vẫn làm ta xao xuyến đến vậy.
Mùa thu dẫu vừa khảy đôi ba nhịp vàng trên tàn cây. Mùa thu dẫu đang đốt hết mình trên hàng cây maple đỏ lá suốt dặm dài. Và mùa thu cho dù cũng vừa khép cánh cửa để ra đi, khép rất nhẹ nhàng như sợ làm thức giấc ai đó đang say ngủ. Tất cả. Những bổng trầm của mùa thu đều rúng động mấy tầng cung bậc cảm xúc của ta. Phiến lá vàng óng kia ẩn mật điều gì. Dấu chân vàng ố chiếc lá cuối thu như thể là những dấu chân cuối cùng để – nhẹ hẫng về mai sau – Ngọn gió của mùa thu ly tan nào vẫn thảng thốt trong nỗi chờ đợi. Hạt mưa nào xám tro quán phố. Và người ngồi nghe gió mùa thu về như – tiếng thổn thức của thời gian. Bạn ơi, xin lắng lòng trong buổi đêm tịch mịch để nghe cảm xúc bạn hòa âm thế nào với âm vang thu, để biết tác động mãnh liệt của thu – phù vân thôi cũng nát đời như chơi…
Phần lớn các nhà thơ nữ sinh sau cột mốc đau thương 1975, đã dường như nhẹ nhàng hơn, những ám ảnh của chiến tranh, ít bị day dứt hơn vấn đề ý thức hệ. Họ ít nhiều đã hưởng được quả ngọt của nữ quyền, thoát ra khỏi khung cửa chật hẹp của định kiến, góp phần nở rộ một dòng thơ mạnh mẽ, tự tin, khao khát tự do, và bản lĩnh, nói rất thực nhân sinh quan của mình về những mối tương quan trong một thế giới vật chất như hiện nay. Họ cũng rất phóng khoáng thể hiện những cảm xúc đam mê dạt dào nữ tính. Mang những trạng thái có vẻ như đối nghịch nhau như thế khiến dòng thơ của lớp thơ nữ này tỏa sức quyến rũ lạ lẫm, tạo nên một lớp độc giả với cảm thụ thi ca mới mẻ.
Khi toàn quốc chiến đấu, người phụ nữ cũng xuất hiện trên các chặng đường của đất nước. Chúng ta đã nhìn thấy hình ảnh người phụ nữ trong cuộc chiến ở Ukraine trên truyền hình, trên YouTube. Họ là các y tá, những chị bếp, hay người nữ chiến binh… nghĩa là tất cả những phương tiện phục vụ cho chiến trường chống lại quân Nga. Nơi đó, giữa những tiếng súng chúng ta nghe được từ màn hình TV, giữa những lời kêu gọi tác chiến, vẫn có những lời thơ đầy nữ tính từ đất nước đau khổ Ukraine. Nhà nghiên cứu Julia Friedrich của Viện Nghiên Cứu Chính Sách Công Toàn Cầu (Global Public Policy Institute - GPPi) tại Berlin trong bài nghiên cứu về hình ảnh phụ nữ tại Ukraine, nhan đề “Feminist Activism in Ukraine Usually Means Demanding More Weapons” (Hoạt động nữ tính tại Ukraine thường có nghĩa là xin thêm vũ khí) đăng trên tạp chí Tagesspiegel Online bằng tiếng Đức ngày 6/8/2022 cho thấy ngoài làn sóng di tản ra hải ngoại, còn rất nhiều phụ nữ ở lại Ukraine để trở thành trụ cột cho một giềng mối mới
Bà nổi tiếng với bộ tự truyện 6 cuốn. Quyển thứ nhất nổi tiếng nhất trên thế giới viết về 17 năm đầu đời của bà, I Know Why The Caged Bird Sings (1969), bà nói: “Đầu tiên người đời phải học cách chăm sóc chính mình để rồi có thể chăm sóc người khác. Đó là lý do làm cho “chim trong lồng hót”. Với tự truyện này bà được xem là một trong những phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên dám công khai bạch hóa đời riêng của mình. Maya Angelou được chọn làm “Người Phụ Nữ của Năm 76” (Woman of the Year) về Truyền Thông của tạp chí Ladies’ Home Journal. Giải Thưởng Matrix của Hội Women in Communications, Inc. vào năm 1983, Giải Thưởng Văn Chương North Carolina vào năm 1987, Giải Thưởng Candace 1990 của Cơ Quan Liên Minh Quốc Gia Phụ Nữ Da Đen (The National Coalition of Black Women).
Langston Hughes và Maya Angelou là hai tên tuổi lớn của nền thi ca da đen. Trang thơ xin bắt đầu với Langston Hughes. Ông sinh ở Joplin, Missouri, là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch. Thơ của ông kết hợp nhiều thể loại, mang đậm nét những bài hát dân gian da đen. Ông tôn vinh nền văn hóa người Mỹ gốc Phi châu trong thời kỳ được gọi là Thời kỳ Phục Hưng Harlem.
Là một nhà thơ, một nhà văn, và là một nhà báo. Hẳn là quá nhiều cho một đời người. Và rồi trở thành chiến binh, sau khi quân Nga tiến vào chiếm bán đảo Crimea và tấn công miền Đông Ukraine năm 2014: nhà thơ Borys Humenyuk đã tình nguyện ra trận chống quân Nga. Một số bài thơ của ông được dịch sang tiếng Anh trong tuyển tập Poems From The War, do hai dịch giả Oksana Maksymchuk và Max Rosochinsky thực hiện. Borys Humenyuk ra đời năm 1965 tại ngôi làng Ostriv, thị trấn Ternopil, miền tây Ukraine. Ông là một nhà thơ, nhà văn và nhà báo. Humenyuk đã tham gia tích cực vào những cuộc biểu tình cuối năm 2013 để dẫn tới Cách mạng Nhân phẩm (Revolution of Dignity) của Ukraine trong tháng 2/2014. Những câu chuyện về chiến tranh được kể trong thơ Borys Humenyuk là có thật, không hư cấu.
Chúng ta đều biết rằng Belarus là một nhà nước toàn trị, tuy mức độ cai trị không khắc nghiệt như ở Nga nhưng vẫn là độc tài hơn hầu hết các nước ở Châu Âu. Tuy nhiên văn học Belarus lại là một lĩnh vực không liên hệ bao nhiêu tới những cam kết chính trị của nhà nước Belarus trong nỗ lực hỗ trợ cuộc chiến của Putin tại Ukraine. Những bài thơ được dịch từ tiếng Belarus sang tiếng Anh đang phổ biến trên nhiều mạng trong học giới Hoa Kỳ cho thấy một khuôn mặt văn học Belarus rất mực thơ mộng của một dân tộc đang tìm tới chân, thiện, mỹ. Belarus có khoảng 9 triệu dân, thủ đô là Minsk, từng là một phần của Liên Xô cho tới năm 1991 tới tách ra, được cai trị bởi Tổng Thống Alexander Lukashenko từ năm 1994 (quá lâu, tới 28 năm nắm quyền tối cao). Biên giới Belarus vây quanh bởi Nga, Ukraine, Ba Lan, Lithuania và Latvia. Hơn 40% trong 207,600 cây số vuông (80,200 dặm vuông) là rừng. Belarus bị Thế Chiến 2 tàn phá, mất 1/3 dân số và hơn ½ tài nguyên kinh tế.
Di sản nghệ thuật của nhạc sĩ Cung Tiến không nằm ở số lượng, mà đầy ở phẩm chất. Ngoài những ca khúc, tấu khúc thuần tuý giá trị về âm nhạc, ông còn để lại những bài viết, tiểu luận dưới nhiều đề tài văn học, kinh tế, và truyện dịch. Chúng ta đã đọc, đã nghe khá nhiều về tài hoa và khả năng sáng tác của Cung Tiến từ tuổi 15 cho đến những năm tháng sau cùng. Trong những quà tặng ông để lại tôi đặc biệt yêu thích nghệ thuật phổ thơ thành nhạc của ông, chẳng những cho chúng ta thưởng thức giai điệu bán cổ điển tây phương, ngủ âm đông phương, mà còn mang thơ Thanh Tâm Tuyền, một trong vài thi sĩ hàng đầu trong thời đại của ông đến giới thưởng ngoạn nhạc nghệ thuật và lưu trữ vào kho tàng âm nhạc Việt. Thơ Thanh Tâm Tuyền không dễ phổ thành nhạc.
Như những tiếng cầu xin cứu vớt linh hồn chúng tôi / ngoài khơi bí mật đến tự một con tàu biển; / qua những mảnh danh từ dệt nên hồn mầu nhiệm / em vẫn chỉ là tóc mây cổ nõn và môi./ Sau áo len danh từ là thế giới xa vời, / là đêm không trăng sao là trùng dương thăm thẳm; / qua những chuỗi ngọc cười, em vui nước mất đẫm / vai anh, em buồn. Đêm hồn anh dài không nguôi.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.