Hôm nay,  

Sài Gòn Đứt Đoạn

30/04/202010:20:00(Xem: 4042)


Ngà lật sách, đọc được một đoạn rồi bỏ xuống, không hiểu mình đang đọc cái gì.  Không biết chữ vô nghĩa vô cảm hay đầu óc Ngà tê liệt.  Ngà tự hỏi điều gì đang xảy ra cho mình.  Ngà bắt đầu đếm hơi thở - hít vào 4 nhịp thở ra 7 nhịp, không biết ai chọn ra những con số ấy nhưng mới hít vào chưa kịp đếm đến 4 thì bụng đã căng phồng như cóc, cố thêm e vỡ bụng.  Thở ra phì phò hít vào ì ạch.  Ngà nằm lâu trên giường, đêm vẫn trắng.

Ra phòng khách tìm một quyển sách cũ chưa bao giờ xem tới mang vào phòng.  Nam Hoa Kinh, trang đầu tiên mang chữ ký của anh Lâm, 1987 đọc lần thứ 3.  Ngà tần ngần.  1987, anh chỉ độ 40 ngoài, đọc quyển sách ấy lần thứ 3?  Ngà nhớ những ngày tháng ấy, những ngày tháng xa lìa đứt đoạn với một kiếp đời.  Hóa ra không chỉ mình Ngà thức thâu đêm, không chỉ mình Ngà đi tìm những gì xưa cũ, những bí mật của Sài Gòn đã mất.

Dọc theo sách là những ghi chú suy nghĩ của anh.  Ngà bồi hồi, bởi Ngà chưa bao giờ đến gần anh để biết một điều gì về con người ấy, bây giờ đến thật gần thì anh đã mất.  

Cũng như cô Thảo đã mất.  Cô mất lúc nào Ngà chẳng hay, chỉ biết tin nhờ cái tật tò mò gì cũng đọc.  Ngà nhớ mình đã lật tới lật lui tờ báo Người Việt như thể sẽ tìm thêm ra được chữ trên bài báo về ông giám đốc nhân sự mới của tỉnh.  Chính là anh ta, nét mặt ấy vóc dáng ấy, cái tên ấy, và những chi tiết về cha mẹ - trên đời làm gì có quá nhiều trùng hợp đến thế, và vậy là cô Thảo đã mất được 10 năm, nghĩa là năm cô chỉ khoảng 68 tuổi, còn quá trẻ.  Cô mất vì bịnh gì?  

Ngà thấy buồn mênh mang, bởi cô Thảo là người bạn đầu tiên của Ngà trên đất lạ.  Cô mang cả một Sài Gòn theo với cô, trong tính cách con người, trong cách cư xử với lũ trẻ như Ngà, và cả trong việc cô giễu cợt Ngà dùng chữ Việt Cộng.  Những khi cô Thảo ghẹo Ngà thấy hơi quê, nhưng Ngà tự hiểu, nỗi buồn của Ngà tựa như tự ái của đứa con nhà nghèo phải mặc quần áo chắp vá vạ vịt vì không có gì để mặc, và tủi phận khi bị chê cười.  Còn cô, chọc ghẹo Ngà vậy thôi chứ cô thường bảo Ngà trạc tuổi con trai lớn của cô.  Ngà hiểu, cô thương Ngà hai mươi tuổi bơ vơ trên xứ lạ không một tình thân, không như gia đình cô đủ đôi bên nội ngoại đã đi thoát từ 1975.  Nhưng cô nào hiểu, tuổi 20 Ngà không hề muốn khóc trao nỗi lòng dù với mẹ cha huống gì kẻ lạ, Ngà nào muốn ai thương hại mình khốn khó bơ vơ.  Cô càng thương Ngà càng muốn xa, và rồi Ngà đã bỏ cái hãng nhỏ ấy để lấy một việc làm khác có lương cao hơn và nhiều quyền lợi.

Ôi, cô Thảo, Ngà cứ cảm nghĩ mình thiếu nợ cô mà không biết nợ nần gì, và Ngà cũng đã muốn xa cô thật xa mà chả biết tại sao.  Cũng không phải là không biết, chỉ là biết mơ hồ.  Nếu màu da xác nhận với người địa phương cái gốc Á châu của Ngà thì những chữ trời ơi nơi cửa miệng xác nhận với người đồng chủng rằng Ngà đến từ xứ cộng sản.  Nhưng làm sao xóa được cái hậu Sài gòn khi Ngà đã ở lại 4 năm, đã rước vào đầu những chữ vớ vẩn dẫu thâm tâm không thể nào chấp nhận được họ.  Ngà không có lỗi dẫu nói sai, mà cô Thảo càng chẳng có lỗi khi nói đúng tiếng Sài Gòn.  Ngà và cô như bộ đồ trà đã bể vụn, 2 miếng sành vỡ không còn ghép lại được, bởi cô biết đến Ngà qua phim ảnh báo chí truyền thông và Ngà biết cô bằng quá khứ cho dẫu cô với Ngà là hai cảnh đời xa lạ.  

Quá khứ của cô là trường Marie Curi đài các, là ngồi cát xê quán kem Phi Điệp của gia đình, là anh thiếu úy phi công hào hoa, thông gia với chỉ huy trưởng Tân Sơn Nhất.  Sài Gòn của cô thật dày bóng mát.  Còn Ngà, cái trường Gia Long là kỷ niệm hiển hách và duy nhất của cuộc đời quá khứ.  Cái hiển hách ấy bao gồm 2 tấm áo dài tê tơ rông trắng mỗi năm và ngày ngày đạp xe ra phố giúp má dọn hàng.  Và Ngà cũng có hình bóng một người lính trong lòng dẫu không biết mặt và không thể là người tình.

Tuổi mười lăm nhiều mắc cở vụng về, ăn chưa no lo chưa tới.  Ngà đạp xe mini yên sau chở thùng đựng đá chứa trăm thứ lẩm cẩm từ cửa hàng lụp xụp về nhà.  Tới ngã tư đèn đỏ thì thùng nghiêng lệch sửa soạn đổ mà cái xe mini không cho phép Ngà dựng chân để sửa.  Xe Suzuki đỏ bên cạnh là hai người lính, anh ngồi sau lẹ làng nhảy xuống sốc thùng đồ trên xe Ngà lên ngay ngắn cột lại chặt chẽ.  Vừa kịp đèn xanh lên, anh thót trở lại yên sau và chiếc xe lăn nhanh theo dòng lưu chuyển.  Ngà không kịp nhìn mặt, anh không chờ lời cám ơn.  Tấm áo lính mờ bụi in xuống lòng đường Ngà đã qua, in vào quá khứ của Ngà một cách êm đềm không cầu gợi chút niềm thân mật.

Sài Gòn của Ngà rồi còn gập ghềnh hơn những năm sau chiến tranh.

Làm sao tránh được cái tranh giành chụp giựt cả trong những việc thật nhỏ mọn bởi chậm là đói.  Làm sao không dòm ngó người khác bởi sơ ý thì sẽ mắc nhiều cái vạ không biết đâu mà gỡ.  Có bao nhiêu lần Ngà thấy ngượng cho mình vì không muốn nói lập trường tào lao thì phải đành moi xấu nhau cái chuyện quần thấp guốc cao trong những buổi họp hành kiểm thảo.  Hoặc nói dối hoặc nói bậy, người ta không có quyền im, không có quyền Take The Fifth!!!  Ngà đã bỏ đi không luyến tiếc, đâu ngờ vết dao quá lớn quá sâu.  Ngà cứ ngỡ mình bỏ đi rồi thì Sài Gòn chỉ còn là mảnh đất chập chờn ẩn hiện lúc nhớ thương, chứ nào biết nó ngày đêm theo với cuộc sống của Ngà trên đất lạ.

Khác với cô Thảo yên tâm xây lập cuộc đời mới trên đất mới, Ngà sống quanh cái miệng chén Sài Gòn.  Tay nào đi làm kiếm sống, túi nào dành chút tiền lẻ gửi về, và những đêm nào mộng mị miệt mài đi tìm Sài Gòn đã mất. 

Ngà lại cầm cuốn sách của anh Lâm để lại đây lần bỏ qua Texas.  Sài Gòn của triết Đông triết Tây.  Sài Gòn của Chiến Tranh và Dân Tộc.  Những năm 80 ấy Ngà cũng đọc bá vạn thứ như vầy, chả biết tại sao mình muốn đọc, phải đọc.  Anh Lâm đã đi qua Sài Gòn bằng một phần của tuổi trẻ, Ngà chỉ mới bước khỏi thềm tuổi thơ.  Phải chăng mất cội rễ người ta phải tìm, và tìm đâu hơn là tìm ở những gì từ vạn thuở xa xưa đã nuôi lớn một dân tộc cho dẫu nó chỉ còn lưu lại trên trang giấy.  Nhưng Nam Hoa Kinh, Ngà nghĩ, cũng chỉ là một cứu cánh cho anh Lâm thấy vết thương của mình chẳng là gì cả sẽ không là gì cả, để lòng bớt đau hồn bớt mỏi, để thoát ra cái bế tắc của cuộc đời hiện tại.  Còn Ngà, ngày Ngà đi làm hết cả hơi, đêm về dỗ giấc ngủ bằng cuốn kinh thánh dày như tự điển Nguyễn Văn Khôn cũng qua được từng đêm.

***

Ngà thức dậy đã 11 giờ sáng.  Ngày bây giờ trọn vẹn của mình, không phải chạy với kim đồng hồ thật sướng.  Bao người hăm rằng sẽ buồn chán, sẽ bị trầm cảm, thiệt vậy không?  Ngà chỉ biết đời mình đã rẽ, rẽ vào chặng cuối cùng, và cho dẫu vào hơi sớm cũng chẳng có gì để luyến tiếc con đường bụi loạn vừa bỏ lại.  Hưu rồi mới thấy ra, mình đã quá mệt mỏi từ biết bao lâu nay và không hiểu mình đã loay hoay ra sao để cáng đáng những ngày 25 tiếng đã qua.  Nhưng thật buồn cười, hưu việc rồi cũng hưu cả nhà thờ - Ngà không còn nhớ lần cuối mình đến nhà thờ là lúc nào.  Ngà thấy dường như mình chẳng còn muốn gì và chẳng còn thấy có gì quan trọng.  Mới ngày nào còn thơ Ngà đã từng đếm tuổi – rằng đến cái năm mà mọi người lo tận thế mình vẫn chưa được nửa trăm năm!

Ngà vào bàn bắt đầu thoa kem bôi phấn.  Ngà vẽ mắt thật tỉ mỉ sao cho mắt lớn rộng ra để bù đắp cái co cụp tuổi đời đè xuống.  Vẽ mắt rồi lại chậm thêm phấn đặc che cái “thượng thọ” nơi quầng dưới mắt.  Rồi lại phấn nâu để thuôn má phệ.  Rồi lại mascara cho đen dài tấm mi thưa…  Ôi, nhan sắc.  Ngà bật cười nhớ lần đầu Má giúp đánh phấn, Má quét cho một lớp thật dày trắng xóa, mi mày chẳng còn thấy chi.  Kịp đến anh chàng phó nhòm chụp cho một loạt hình kiểu cũng cho người dặm lên mặt mình không biết bao nhiêu là những má hồng với chì với son với mày với tóc.  Ngà biết ra mình cần thấy chính mình và tự trang điểm cho chắc ăn!  

Mặc vào bộ quần áo trắng, giờ tha hồ mặc màu nhạt không sợ cọ quẹt lấm lem, Ngà lên xe lần theo địa chỉ để đón Mai.

Mai đích thị tiểu thư, đời nhung lụa nhàn nhã, sống bên kia cửa thiên đường mộng mơ nên dẫu học chung lớp mà có bao giờ Ngà bước lại gần để kết bạn.  Cả cái trường đại học theo đuổi Mai, từ trò đến thầy, từ bạn đến thù dẫu Mai yểu điệu tơ đào thì làm gì có kẻ thù - chỉ là những kẻ khổ đau không được kết bạn kết tình với một cánh sao kiêu sa.  Ngà không biết sau 40 năm xa cách thì Mai ra sao và cuộc gặp gỡ này rồi có trở thành tai vạ.  Nghĩ, rồi lòng chợt bâng khuâng.  Phân cách xã hội đã đeo đẳng hoài trong tâm trí mà Ngà chả bao giờ nhận ra.

Ngà bước vào, Mai đang nói điện thoại với bà dì, chỉ nhẹ nhàng đến ôm Ngà hôn lên má.  Xong cuộc nói chuyện, Mai đến xoay người Ngà ngắm nghía cười khanh khách, “Ngà vẫn như xưa!”  Cái hồn nhiên vui vẻ cười thành tiếng của Mai nói với Ngà rằng lớp vỏ e dè khép nép vì xã hội vì cách biệt của buổi đổi đời đã được bóc gột sạch.  Nơi trời đất mới, cánh mai nay được nở bung bừng tươi sức sống.  Mai mang theo mình cái ăn diện tỉ mỉ của những cô gái Sài Gòn xưa, như trong hàng ngàn hàng trăm những tấm ảnh mà đâu đó người ta đã lưu lại để bây giờ mang ra cho mình xem mà nhớ mà thương.  Ôi Sài Gòn của Ngà.  Ôi tuổi thơ của Ngà.  Ngà nào đã được biết gì, được đi đến đâu được sống bao nhiêu trong cái thành phố hằng thương tưởng ấy.  Ngà như đóa hoa chưa kịp nở đã phải bị héo quặt bứt rời mà hồn chẳng cam nên cứ hoài lưu luyến.

Hai đứa vào quán ăn đã hẹn trước với một vài bạn.  Tiếng cười gọi tiếng cười, chuyện quẩn quanh vẫn là những gì đã xảy ra cho từng đứa khi mọi người đứng bên nhau mà lòng văng muôn ngả.  Những mảnh vụn được dần ghép lại để Ngà thấy ra lứa của Ngà đã thiếu mất một phần niên thiếu.  Tâm trí Ngà lại từ từ trôi giạt, tiếng cười nói như những mảnh vụn bánh mì rơi xuống mặt bàn.  Ngà nhìn Mai, nhìn chị Thi, nhìn Thiện, nhìn ngược lại mình.  Ngà buồn rầu nghĩ mình chỉ còn là con ma sống dai trên dương thế.

Con ma ấy ngày ngày qua phố Sài Gòn Nhỏ, đi len lỏi trên lề hẹp đầy những quầy bán sách báo vàng nhang ảnh tượng quần áo thời trang từ Việt nam gửi sang, những loại cây cảnh quê nhà phải ương trồng 5,7 năm mới ra hoa trái, những rổ rau quả các cụ lấy từ vườn nhà đem bán mua vui, để thấy bồi hồi tưởng mình đi trên khúc đường Lê Thánh Tôn ngày cũ với tủ kính mát, sạp hoa ni lông, sạp áo thun, sạp nón, sạp giày, tiệm thuốc tây, tiệm huy chương An Thành, tiệm quần áo trẻ con, tiệm vân vân.  À, tiệm thuốc tây, tiệm thuốc tây có cô chị cao lớn mặc áo dạ hội vai trần bó ngực dài phết đất, má phấn môi son đẹp như tài tử ngoại quốc đi dạ vũ ở Maxim, có cô em nhỏ người xinh như búp bê cũng không kém phần lộng lẫy một lúc lâu sau mới ra tưởng như em là cô bé lọ lem mãi rồi mới lựa thóc đậu xong để được bộ quần áo kiêu sa mà đi phó hội.  Ôi, Sài Gòn của Ngà, cái Sài Gòn xưa với đủ mọi sắc màu tươi thắm lấm lem, cổ tích với dân dã, ngọt ngào lẫn tủi cực, cái Sài Gòn mà người ta nhất quyết bôi xóa, nó đã mọc lên ở đây, ở cái khe đất người bản xứ không chú ý, như những cây me con con đã nhờ gió thổi hạt bay tứ phương rồi lén lút trồi lên ở bất cứ rãnh đất trống nào, trong khi Sài Gòn ngày nay ở quê nhà lại như những con phố ngoại quốc lòe loẹt cửa hàng thời trang với những tòa nhà chọc trời che hết thổi bay hết các sắc mùi quê hương yêu dấu.  

Đâu chỉ cô Thảo, anh Lâm, những người mà Ngà đã biết đã gặp trong buổi đầu đời trên đất lạ nay mất đi.  Chính Ngà cũng biệt tăm, như những khe trống của đường ranh giới đoạn nổi trên tấm bản đồ của một thành phố đã mất.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.