Hôm nay,  

Một Kỷ Vật Vô Giá

27/03/202114:43:00(Xem: 4444)
Nguyen Manh San
Đức Mẹ Bồng Chúa Giêsu



Bất cứ ai sống trên đời, không nhiều thì ít, đều có những kỷ niệm đặc biệt vui buồn in sâu trong tâm trí. Một trong những kỷ niệm này cũng là khi mình từng được lãnh nhận những món quà xem như những kỷ vật tinh thần vô giá được lưu trữ từ đời này đến đời nọ cho con cháu sau này. Người viết hôm nay cũng không thoát khỏi trường hợp đã nói như trên và xin chia sẻ cùng bạn đọc:
Làm sao quên được thời gian cách đây hơn 17 năm, khi tôi còn đang làm nhiệm vụ tình nguyện là một Tuyên Úy Trại Tù Liên Bang (Certified Federal Prison Chaplain), cho Tổng Giáo Phận Thành phố Oklahoma City, bang Oklahoma (Catholic Archdiocese of Oklahoma City, Oklahoma)? Lúc đó tôi đã viết một bài tường thuật đăng trên báo chí, về câu chuyện của một thanh niên người Việt tên là Lê Thanh Hùng, bị kết án tử hình đầu tiên tại tiểu bang Oklahoma, can tội cố sát một người bạn thân từng kết nghĩa với mình, xem nhau như anh em ruột thịt lúc hai người còn tạm cư trong trại tỵ nạn ở Malaysia.
Nội dung bài viết lúc đó, tôi chỉ nhằm mô tả lại những hành động diễn biến xảy ra giữa hai người bạn thân này xích mích rồi đánh nhau vì cho nhau vay mượn tiền bạc. Sự việc cuối cùng dẫn tới một người bị đâm trúng tim chết và một người bị kết án tử hình.
Cũng trong bài viết, tôi đã nêu lên một vài yếu tố khách quan về pháp lý của hành động cầm dao đâm chết người vì tự vệ, tuy nhiên, sau gần 10 năm, chính phạm - người bạn cầm dao đâm bạn mình - đã bị hành quyết về tội cố sát tại trại tù McAlester, Oklahoma.
Có thể nói chính xác là trong suốt thời gian gần 10 năm đương sự sống trong tù, tôi là người thường xuyên đến thăm nom, an ủi tinh thần và ngay cả trước ngày anh tạ bị hành quyết, anh cũng đã yêu cầu tôi hiện diện, để nhờ tôi, với tư cách là một Thầy Sáu cầu nguyện xin Thiên Chúa thương xót tha thứ mọi lỗi lầm cho anh vì anh biết dù vô tình hay cố ý thì anhï vẫn là kẻ có tội. Hơn thế, người tử tội có thể cũng muốn nhìn thấy tôi vào giây phút biệt ly cuối cùng trong cuộc đời trần thế. qua mũi chích thuốc độc tiễn anhï giã từ cõi đời phù du. Tôi đã nhớ là chính trong giây phút đau thương này, người tử tội cho tôi biết là anh vẫn giữ vững niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa vì biết chắc rằng Ngài là Đấng thấu hiểu mọi sự đã biết rõ anhï không hề có chủ ý giết người mà nguyên nhân do sực bắt buộc phảiá tự vệ..
Tôi nhận thấy không cần thiết phải nhắc lại các chi tiết sự việc đã xẩy ra có liên quan đến vấn đề pháp luật của người thanh niên tử tội vì câu chuyện này đã được giới truyền thông trước đây phổ biến rộng rãi. Nhưng tôi sẽ xin kể lại một phép lạ xẩy ra cho đương sự và một giai thoại mang tính khá khôi hài có tính châm biếm mà đương sự đã nói với tôi trước giờ phút lâm chung.
Vâng, nói về phép lạ xẩy ra cho đương sự, cần nói ngay là thật vô cùng kinh ngạc vì tôi được thấy tận mắt, chứ không phải thấy trong giấc mơ – điều mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho con người ở dưới trần gian.
Trước 2 tuần lễ ngày đương sự bị hành quyết, khi tôi vào thăm, anh đến quỳ gối dưới đất, trong đôi tay anh cầm một cuộn giấy dài bằng hai gang, bên ngoài cuộn giấy được gói kín bằng giấy gói quà hoa mầu hồng. Anh trịnh trọng trao gói quà cho tôi và nói:
-Trước ngày con phải bị từ giã cõi đời này, con có một chút quà bé nhỏ kính tặng Thầy để tỏ tấm lòng biết ơn sâu xa đối với Thầy. Trong nhiều năm qua, Thầy đã tận tình hy sinh thời gian quý báu
nhất của Thầy để vào trại tù thăm nom an ủi con thường xuyên vào những ngày nghỉ cuối tuần, liên tục gần 10 năm nay. Ngoài việc Thầy đã trực tiếp giúp đỡ con về mặt tinh thần tôn giáo, Thầy còn trực tiếp đóng vai trò trung gian, thay mặt gia đình con để giới thiệu và liên lạc với các luật sư bào chữa cho tội phạm hình sự của con nữa. Con không biết nói gì hơn, xin Thầy hãy vui lòng nhận món quà bé nhỏ này của con, tượng trưng cho lòng biết ơn của riêng con và của gia đình con và cũng để mỗi lần Thầy nhìn vào món quà kỷ niệm bé nhỏ này, Thầy sẽ nhớ đến con trong lời cầu nguyện đặc biệt riêng của Thầy cho con.
Tôi rất rất xúc động khi mở gói quà ra, nhìn thấy đó là một bức tranh thêu hình Đức Mẹ Bồng Đức Chúa Giêsu tuyệt đẹp. Tôi hỏi anh làm cách nào mà anh có bức hình tuyệt đẹp như thế này để tăng tôi?
Anh cho biết cách đây khoảng 6 tháng, anh đã có ý nghĩ muốn tặng cho tôi một món quà mang ý nghĩa sâu đậm để tặng tôi làm kỷ niệm trước ngày anh sẽ phải lìa cõi đời này, thì bất chợt anh nghĩ đến việc vẽ một bức tranh hình Đức Mẹ Bồng Đức Chúa Giêsu sẽ hàm chứa một ý nghĩa cao quý nhất. Thế rồi ngay sau khi anh vẽ xong, anh lại muốn thêu lên hình vẽ để hình Đức Mẹ và Đức Chúa Giêsu trong tranh trông sống động hơn. Vì trong trại tù này chỉ giam giữ những tù nhân lãnh án chung thân hay án tử hình, nên luật lệ ở đây rất nghiêm khắc khiến anh thiếu mọi vật liệu để thực hiện ý muốn. Anh tự hỏi nếu thêu thì anh lấy đâu ra những sợi len và đôi que đan và cho dù anh có được đầy đủ những vật dụng này để thêu thành bức tranh thì cũng chưa chắc gì anh đã thực hiện được ý định này. Nếu có người cai tù (Jailor) nào trông thấy anh làm điều này thi chắc chắn họ họ sẽ ngăn cấm tức khắc, tuy vậy, trong thâm tâm, anh vẫn quyết tâm và cố gắng nghĩ ra mưu kế, tìm tòi tất cả các vật dụng nào khả dĩ có thể dùng để thực hiện cho bằng được ý muốn này.
Trước tiên anh đã phải xé chiếc áo tù vải mầu cam của anh và từ từ gỡ từ mảnh vải áo ra những sợi chỉ nhỏ thay thế cho sợi len, dùng đôi đũa làm que đan và để tránh không bị những tên cai tù hay anh em tù nhân khác nhìn thấy sẽ tố cáo anh nên anh phải làm trong đêm khuya gần sáng trong lúc mọi người trong tù đang ngủ say để rồi – Trời không phụ lòng người có tâm – anh đã hoàn tất bức tranh vẽ thêu tay trong gần 3 tháng trời. Sau cùng anh nhờ một tù nhân chung thân khác trong trại tìm cho anh được một vài cây bút chì mầu để anh tô đậm lên những nét vẽ hình Đức Mẹ Bồng Đức Chúa Giêsu cho nổi bật.
Nếu những ai đã từng quen biết anh tử tội này ở ngoài đời trước khi anh bị ngồi tù thì đều biết rõ anh chỉ là một chuyên viên sửa máy vi tính cho một hãng điện tử ở tiểu bang Illinois, nay có dịp được nhìn thấy tận mắt bức tranh này do chính tay anh vẽ và cũng do chính tay anh thêu trong tù (hình đính kèm) thì tất phải vô cùng kinh ngạc và tin rằng đây là một phép lạ hy hữu của Thiên Chúa đã ban cho anh một tài năng đặc biệt, để anh hoàn thành một bức tranh vẽ thêu kỳ diệu, mà ngay cả những họa sĩ nổi danh chưa chắc đã vẽ và thêu thành một bức tranh tuyệt tác như thế này. Búc tranh nói lên được ý nghĩa cao trọng tình mẫu tử của Đức Maria bồng Đức Chúa Giêsu, nhất là bức tranh được hoàn thành trong một hoàn cảnh thiếu mọi vật dụng để thực hiện kể cả sự tự do để thực hiện ước mơ của người tử tội trong lao xá có nhiều quy định nghiêm khắc chuyên giam giữ những tội nhân lãnh án chung thân và tử hình.
Tiếp theo đây, người viết xin thuật lại một giai thoại mang tính khôi hài lẫn châm biếm của người thanh niên tử tội Lê Thanh Hùng.
Trước 3 ngày anh bị đưa đi hành quyết, tôi vào thăm anh để hỏi xem anh còn cần những điều gì khác mà tôi có thế giúp anh được không, thì anh cho tôi biết có hai điều anh yêu cầu giúp.
Điều thứ nhất, anh yêu cầu tôi mời một vị Linh Mục đến giải tội cho anh vì anh biết tôi là Thầy Sáu không có năng quyền giải tội và điều thứ nhì, anh yêu cầu tôi đến chứng kiến lúc anh bị hành quyết.
Cả hai điều yêu cầu của anh đã được tôi thực hiện trọn vẹn, măc dầu anh không dám yêu cầu vị Linh Mục gỉai tội cho anh có mặt lúc anh bị hành quyết, nhưng vị Linh Mục này cũng tự động hiện diện cùng với tôi trong giờ phút quan trọng đó. Trong gần 10 năm, tôi thường xuyên thăm nom anh trong trại tù nên tôi nhận xét thấy anh là một thanh niên rất thông minh, lanh lợi, có óc sáng tạo và dường như có cả giác quan thứ sáu nữa vì có những điều tôi chưa kịp nói hết cho anh nghe, thì anh đã đoán ra tôi muốn nói gì rồi.
Lê Thanh Hùng cũng rất khôi hài và châm biếm. Tôi còn nhớ đã có nhiều lần anh than phiền với tôi là biết bao nhiêu năm nay, anh thèm ăn phở hoặc bún riêu quá mà không được ăn, vì các phạm nhân chung thân và tử hình trong trại tù, người thân trong gia đình không được quyền mang đồ ăn ở ngoài vào cho tội nhân nên chỉ ăn toàn đồ ăn Mỹ nấu trong trại tù để đề phòng tù nhân ăn đồ ăn nấu bên ngoài có thể bị ngộ độc.
Hôm nay anh cho biết là anh được vị Trưởng Trại (Warden) “báo tin mừng” cho anh biết trước là anh sẽ được cung phụng một bữa cơm biệt ly miễn phí (Free Farewell Meal). Anh muốn chọn cơm Tây, cơm Tầu, cơm Tây Ban Nha, cơm Việt Nam... tùy theo ý anh muốn, nhưng phải ăn trước 24 giờ trước khi bị hành quyết. Vừa nghe anh thuật “tin mừng” này xong, tôi nhớ ngay tới lời anh nói với tôi nhiều lần trước, là anh thèm ăn Phở hoặc Bún Riêu. Tôi liền đề nghị với anh là để tôi yêu cầu họ cung cấp món Phở hay món Bún Riêu cho anh ăn, mà gần 10 năm nay anh không được ăn một trong hai món này. Anh đã trả lời ngay:
-Thầy ơi! Ăn phở chỉ có một món, ăn cơm Tầu có nhiều món, không phải trả tiền, tội gì mà ăn một món?
Tôi thầm nghĩ câu trả lời này thật di dỏm, khôi hài, mà còn mang tính châm biếm nữa. Nói tóm lại, mỗi lần tôi ngắm nhìn vào bức tranh thêu Đức Mẹ Bồng Đức Chúa Giêsu mà anh tử tội này đã trao tặng tận tay tôi, tôi luôn bồi hồi xúc động với cảm giác thấy có một điều gì thiêng liêng ẩn hiện trong bức hình, tưởng chừng như anh thanh niên tử tội này đang đứng trước mặt tôi và trao tặng tôi vậy.
Cho tới bây giờ, với tôi, đây là một kỷ vật vô giá, mà tôi sẽ cất giữ nó trong suốt cuộc đời khi còn tồn tại và còn cho cả con cháu của tôi sau này. Bức tranh này còn được coi như là một cuốn nhật ký ghi lại tất cả những điều éo le, uẩn khúc, trong câu chuyện tình cảm thương tâm đầy nước mắt của người thanh niên tử tội tên Lê Thanh Hùng, người đã tâm sự chuyện lòng của mình cho tôi nghe qua nhiều năm tháng, khi anh còn sống trong tù, nhưng vì là chuyện riêng tư nên tôi không thể nào viết hết ra đây mà chỉ biết xin nguyện cầu Thiên Chúa đón nhận anh về với Ngài trên nước Thiên Đàng.


Sau cùng, người viết xin hẹn tái ngộ với bạn đọc trong một số báo khác để được tiếp tục kể lại những kinh nghiệm sống trong thời gian phục vụ tha nhân. Chân thành cảm tạ độc giả quý mến củả nguyệt san đã có rất nhiều sự khích lệ đối với người viết.

***

AN INVALUABLE SOUVENIR

By Deacon Nguyen M. San

 

Whoever lives in this world would have some special memories imprinted in his mind. One of these memories may include receiving some spiritual gifts whose impact carries for generations.  The writer of this story is not an exception to this rule, and he sincerely

wanted to share it with you:

 

It was an unforgettable period of time, more than 17 years ago, when working as a volunteer Certified Federal Prison Chaplain for the Catholic Archdiocese of Oklahoma City, Oklahoma, 

I wrote a report published on newspaper regarding the story of a man named Le Thanh Hung who was the first Vietnamese sentenced to death in state of Oklahoma. He committed a crime of killing his friend, who had been very close to him and considered as his brother by blood since the time they stayed in a Malaysian refugee camp.

The content of the article then was focusing on the motives, and relationship between the two men leading to the crime. One lent money to the other, then fighting among them broke out. Defendant Le used a knife to attack his friend and stabbed deeply to his heart.  His friend passed away and Le was sentenced to death.

In the article I also pointed out a number of objective legal issues of using a knife for self-defense; however, nearly 10 years after the killing, the person who used a knife to stab his friend was executed at McAlester prison, Oklahoma for his crime.

 

During his stay in prison of nearly 10 years, I was the one who frequently visited with him and consoled him, even at the time preceding his execution; he particularly asked me to be present on the day of execution so I coud pray for him.  As a Deacon I would pray God to love him and to forgive him of all faults he had committed. He recognized that intentionally or accidently he had committed a vicious crime. Moreover, as a prisoner under sentence of death like him, he wanted to see me at the last minute of his life when receiving a cocktail of toxic substance via a shot to his vein taking him out of this temporary world. I remembered that it was during this painful moment, he let me know that he was still a strong believer in God. As he knew for sure that God understood all what had happened, that he did not intend to kill and that he acted in self-defense. 

I realize that it is not necessary to repeat the details of what had been discussed related to the legal issue of his death sentence as this story has been widely publicized on news media. But I would like to present in this article a miracle occurred to him and a sarcastic story before his execution.

 

Well, it was a marvelous miracle that I fully experienced, it was not a dream - something that only God can give to people on earth.

 

Two weeks before his execution, I came to visit with him.  He kneeled down in front of me, he hold on his hands a roll of paper about 16 inches long, wrapping paper decorated with pink flowers covering the paper roll.  He respectfullly offered me  that gift and said:

  • Before the day leaving this world, I have a small gift to you for greatly appreciating your deeds. Over the past ten years, you had spent time visiting me in prison during the weekends and consoling me.  Besides helping me in religious and spiritual matters,

you had acted as my family’s representative in contact with defense attorneys to plead my cause. I don't know what to say, please accept this little gift showing my own gratitude and that of my family; when looking at this little souvenir you will remember me in your special prayers for me.

 

I was very touched when opening the package, it was a beautiful embroidery picture of Our Lady holding Jesus. I asked him how he got this beautiful picture to give me.

 

He said that about 6 months ago, he had a thought of giving me a gift bearing a special meaning in order to mark my special service offered to him before the day he would have to leave this world. Suddenly he thought about drawing a picture of Our Lady holding Jesus, which would mean a noble cause.  After he finished drawing, he wanted to embroider the picture of the Our Lady and Jesus to make it more attractive. The prison camp where he stayed was reserved for prisoners serving life sentence and those under death sentence; thus, the discipline was very strict. He lacked most of the tools and materials to implement his plan. He wondered if he wanted to knit, where the threads and the knitting sticks would come from. Even though he had all of these tools and threads he was not sure he would have achieved this task. If the jailer saw him doing this, they would have stopped his works. However, he still decided to do so and came up with bright ideas and explored all the possibilities.

First of all, he had to tear his orange uniform and slowly removed small threads from it to use them as wool fibers and converted chopsticks into knitting rods.  For hiding his activities in embroidery from jailers and other fellow inmates he had to do the works late into the night while everyone in the prison was asleep – After three months of hard working on the picture he had achieved his goal of finishing the art works.  In the end he asked an inmate serving life sentence to find some color pencils so he could use those to highlight the drawing marks of the picture of Our Lady holding Jesus.

If those who had known him before he was jailed, it was clear to them that he was just a computer technician working for an electronic company in Illinois. If they had a chance to look at this painting (photo attached), which was drawn and embroidered by his own hand while he was in the prison, they would have been amazed and believed that this had been a marvelous miracle which God blessed him. Even distinguished artists might not be able to produce such an embellished painting. The painting depicts the sacred meaning of the motherhood of Our Lady Mary toward Jesus.  It was so distinguished that the painting was accomplished in an awkward situation where tools, materials and freedom of the artist were lacking. 

 

Following the above, the writer would like to tell a sarcastic story of Le Thanh Hung, a prisoner under death sentence.

Three days before his execution, I came to visit him to see whether he may need something that I can help.

First, he asked me to invite a catholic priest to hear his confession because he knew that a deacon is not authorized to hear confession; and second, he requested my presence to witness his execution.  Both of his requirements have been answered by me, although he did not dare to have a priest present at his execution.  Nevertherless, both the priest and me were present at this crucial moment.  For nearly 10 years, I have frequently visited him in prison, I realized that he was a very bright, smart, and full of incentive person; and it seemed that he aslo has sixth sense. Sometimes I had not finished the talk I meant to share with him, he had already predicted what I wanted to say.

Le Thanh Hung was a humorous and sarcastic man. I remembered that many times he complained to me that he had not eaten pho and ground crab noodle soup for many years and he craved for these dishes.  However, he could not receive them as the strict rules of the prison, where he stayed, did not allow families to bring foods from outside to serve  the prisoners. Those rules were applied to avoid prisoners from potentially eating intoxicated foods prepared by people other than the prison staff. Thus, he had always eaten American foods provided by the prison.  

 

On that day (3 days before the execution) he had been informed good news by the Warden that he would be served with a “Free Farewell Meal”, whatever he preferred to eat either French, Chinese, Spanish, or Vietnamese foods..., but the meal would have to be served 24 hours before the time of execution. Just listening to him about this "great news", I immediately remembered what he had told me several times before that he craved for Pho or ground crab noodle soup. I immediately suggested to him for asking the prison staff to provide him with one of those dishes, which he had not have for nearly 10 years. He replied right away:

  • Deacon! Pho is only one bowl, Chinese meal has several dishes and free of charge, why should I just eat one bowl?

I think to myself that his answer is witty, humorous and also sarcastic.

 

In summary, every time I looked at and contemplating the painting of Our Lady holding Jesus that the prisoner under death sentence gave it to me, I was always sad, touched and felt like something sacred inside this piece of art, and like he was standing in front of me and offering me that precious gift.

Until now it has been an invaluable souvenir for me, I will secure it for the rest of my life and for future generations. This painting is also considered a diary recording all twists and turns in this heart-felt story of a young prisoner under death sentence named Le Thanh Hung; he, who had told me all personal intimate stories in months and years during his stay in prison.  However, those were private and I could not share them with you; I could only pray God for him and wish that God would take him to his kingdom.  

 

Finally, the writer would like to communicate with you again on this magazine to continue sharing remarkable experiences throughout his life during the time he served others. He truthfully thanks all readers of the media who enjoyed reading his articles on magazines or on his two books by encouraging words sent to him.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.