Hôm nay,  

Một Kỷ Vật Vô Giá

27/03/202114:43:00(Xem: 4442)
Nguyen Manh San
Đức Mẹ Bồng Chúa Giêsu



Bất cứ ai sống trên đời, không nhiều thì ít, đều có những kỷ niệm đặc biệt vui buồn in sâu trong tâm trí. Một trong những kỷ niệm này cũng là khi mình từng được lãnh nhận những món quà xem như những kỷ vật tinh thần vô giá được lưu trữ từ đời này đến đời nọ cho con cháu sau này. Người viết hôm nay cũng không thoát khỏi trường hợp đã nói như trên và xin chia sẻ cùng bạn đọc:
Làm sao quên được thời gian cách đây hơn 17 năm, khi tôi còn đang làm nhiệm vụ tình nguyện là một Tuyên Úy Trại Tù Liên Bang (Certified Federal Prison Chaplain), cho Tổng Giáo Phận Thành phố Oklahoma City, bang Oklahoma (Catholic Archdiocese of Oklahoma City, Oklahoma)? Lúc đó tôi đã viết một bài tường thuật đăng trên báo chí, về câu chuyện của một thanh niên người Việt tên là Lê Thanh Hùng, bị kết án tử hình đầu tiên tại tiểu bang Oklahoma, can tội cố sát một người bạn thân từng kết nghĩa với mình, xem nhau như anh em ruột thịt lúc hai người còn tạm cư trong trại tỵ nạn ở Malaysia.
Nội dung bài viết lúc đó, tôi chỉ nhằm mô tả lại những hành động diễn biến xảy ra giữa hai người bạn thân này xích mích rồi đánh nhau vì cho nhau vay mượn tiền bạc. Sự việc cuối cùng dẫn tới một người bị đâm trúng tim chết và một người bị kết án tử hình.
Cũng trong bài viết, tôi đã nêu lên một vài yếu tố khách quan về pháp lý của hành động cầm dao đâm chết người vì tự vệ, tuy nhiên, sau gần 10 năm, chính phạm - người bạn cầm dao đâm bạn mình - đã bị hành quyết về tội cố sát tại trại tù McAlester, Oklahoma.
Có thể nói chính xác là trong suốt thời gian gần 10 năm đương sự sống trong tù, tôi là người thường xuyên đến thăm nom, an ủi tinh thần và ngay cả trước ngày anh tạ bị hành quyết, anh cũng đã yêu cầu tôi hiện diện, để nhờ tôi, với tư cách là một Thầy Sáu cầu nguyện xin Thiên Chúa thương xót tha thứ mọi lỗi lầm cho anh vì anh biết dù vô tình hay cố ý thì anhï vẫn là kẻ có tội. Hơn thế, người tử tội có thể cũng muốn nhìn thấy tôi vào giây phút biệt ly cuối cùng trong cuộc đời trần thế. qua mũi chích thuốc độc tiễn anhï giã từ cõi đời phù du. Tôi đã nhớ là chính trong giây phút đau thương này, người tử tội cho tôi biết là anh vẫn giữ vững niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa vì biết chắc rằng Ngài là Đấng thấu hiểu mọi sự đã biết rõ anhï không hề có chủ ý giết người mà nguyên nhân do sực bắt buộc phảiá tự vệ..
Tôi nhận thấy không cần thiết phải nhắc lại các chi tiết sự việc đã xẩy ra có liên quan đến vấn đề pháp luật của người thanh niên tử tội vì câu chuyện này đã được giới truyền thông trước đây phổ biến rộng rãi. Nhưng tôi sẽ xin kể lại một phép lạ xẩy ra cho đương sự và một giai thoại mang tính khá khôi hài có tính châm biếm mà đương sự đã nói với tôi trước giờ phút lâm chung.
Vâng, nói về phép lạ xẩy ra cho đương sự, cần nói ngay là thật vô cùng kinh ngạc vì tôi được thấy tận mắt, chứ không phải thấy trong giấc mơ – điều mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho con người ở dưới trần gian.
Trước 2 tuần lễ ngày đương sự bị hành quyết, khi tôi vào thăm, anh đến quỳ gối dưới đất, trong đôi tay anh cầm một cuộn giấy dài bằng hai gang, bên ngoài cuộn giấy được gói kín bằng giấy gói quà hoa mầu hồng. Anh trịnh trọng trao gói quà cho tôi và nói:
-Trước ngày con phải bị từ giã cõi đời này, con có một chút quà bé nhỏ kính tặng Thầy để tỏ tấm lòng biết ơn sâu xa đối với Thầy. Trong nhiều năm qua, Thầy đã tận tình hy sinh thời gian quý báu
nhất của Thầy để vào trại tù thăm nom an ủi con thường xuyên vào những ngày nghỉ cuối tuần, liên tục gần 10 năm nay. Ngoài việc Thầy đã trực tiếp giúp đỡ con về mặt tinh thần tôn giáo, Thầy còn trực tiếp đóng vai trò trung gian, thay mặt gia đình con để giới thiệu và liên lạc với các luật sư bào chữa cho tội phạm hình sự của con nữa. Con không biết nói gì hơn, xin Thầy hãy vui lòng nhận món quà bé nhỏ này của con, tượng trưng cho lòng biết ơn của riêng con và của gia đình con và cũng để mỗi lần Thầy nhìn vào món quà kỷ niệm bé nhỏ này, Thầy sẽ nhớ đến con trong lời cầu nguyện đặc biệt riêng của Thầy cho con.
Tôi rất rất xúc động khi mở gói quà ra, nhìn thấy đó là một bức tranh thêu hình Đức Mẹ Bồng Đức Chúa Giêsu tuyệt đẹp. Tôi hỏi anh làm cách nào mà anh có bức hình tuyệt đẹp như thế này để tăng tôi?
Anh cho biết cách đây khoảng 6 tháng, anh đã có ý nghĩ muốn tặng cho tôi một món quà mang ý nghĩa sâu đậm để tặng tôi làm kỷ niệm trước ngày anh sẽ phải lìa cõi đời này, thì bất chợt anh nghĩ đến việc vẽ một bức tranh hình Đức Mẹ Bồng Đức Chúa Giêsu sẽ hàm chứa một ý nghĩa cao quý nhất. Thế rồi ngay sau khi anh vẽ xong, anh lại muốn thêu lên hình vẽ để hình Đức Mẹ và Đức Chúa Giêsu trong tranh trông sống động hơn. Vì trong trại tù này chỉ giam giữ những tù nhân lãnh án chung thân hay án tử hình, nên luật lệ ở đây rất nghiêm khắc khiến anh thiếu mọi vật liệu để thực hiện ý muốn. Anh tự hỏi nếu thêu thì anh lấy đâu ra những sợi len và đôi que đan và cho dù anh có được đầy đủ những vật dụng này để thêu thành bức tranh thì cũng chưa chắc gì anh đã thực hiện được ý định này. Nếu có người cai tù (Jailor) nào trông thấy anh làm điều này thi chắc chắn họ họ sẽ ngăn cấm tức khắc, tuy vậy, trong thâm tâm, anh vẫn quyết tâm và cố gắng nghĩ ra mưu kế, tìm tòi tất cả các vật dụng nào khả dĩ có thể dùng để thực hiện cho bằng được ý muốn này.
Trước tiên anh đã phải xé chiếc áo tù vải mầu cam của anh và từ từ gỡ từ mảnh vải áo ra những sợi chỉ nhỏ thay thế cho sợi len, dùng đôi đũa làm que đan và để tránh không bị những tên cai tù hay anh em tù nhân khác nhìn thấy sẽ tố cáo anh nên anh phải làm trong đêm khuya gần sáng trong lúc mọi người trong tù đang ngủ say để rồi – Trời không phụ lòng người có tâm – anh đã hoàn tất bức tranh vẽ thêu tay trong gần 3 tháng trời. Sau cùng anh nhờ một tù nhân chung thân khác trong trại tìm cho anh được một vài cây bút chì mầu để anh tô đậm lên những nét vẽ hình Đức Mẹ Bồng Đức Chúa Giêsu cho nổi bật.
Nếu những ai đã từng quen biết anh tử tội này ở ngoài đời trước khi anh bị ngồi tù thì đều biết rõ anh chỉ là một chuyên viên sửa máy vi tính cho một hãng điện tử ở tiểu bang Illinois, nay có dịp được nhìn thấy tận mắt bức tranh này do chính tay anh vẽ và cũng do chính tay anh thêu trong tù (hình đính kèm) thì tất phải vô cùng kinh ngạc và tin rằng đây là một phép lạ hy hữu của Thiên Chúa đã ban cho anh một tài năng đặc biệt, để anh hoàn thành một bức tranh vẽ thêu kỳ diệu, mà ngay cả những họa sĩ nổi danh chưa chắc đã vẽ và thêu thành một bức tranh tuyệt tác như thế này. Búc tranh nói lên được ý nghĩa cao trọng tình mẫu tử của Đức Maria bồng Đức Chúa Giêsu, nhất là bức tranh được hoàn thành trong một hoàn cảnh thiếu mọi vật dụng để thực hiện kể cả sự tự do để thực hiện ước mơ của người tử tội trong lao xá có nhiều quy định nghiêm khắc chuyên giam giữ những tội nhân lãnh án chung thân và tử hình.
Tiếp theo đây, người viết xin thuật lại một giai thoại mang tính khôi hài lẫn châm biếm của người thanh niên tử tội Lê Thanh Hùng.
Trước 3 ngày anh bị đưa đi hành quyết, tôi vào thăm anh để hỏi xem anh còn cần những điều gì khác mà tôi có thế giúp anh được không, thì anh cho tôi biết có hai điều anh yêu cầu giúp.
Điều thứ nhất, anh yêu cầu tôi mời một vị Linh Mục đến giải tội cho anh vì anh biết tôi là Thầy Sáu không có năng quyền giải tội và điều thứ nhì, anh yêu cầu tôi đến chứng kiến lúc anh bị hành quyết.
Cả hai điều yêu cầu của anh đã được tôi thực hiện trọn vẹn, măc dầu anh không dám yêu cầu vị Linh Mục gỉai tội cho anh có mặt lúc anh bị hành quyết, nhưng vị Linh Mục này cũng tự động hiện diện cùng với tôi trong giờ phút quan trọng đó. Trong gần 10 năm, tôi thường xuyên thăm nom anh trong trại tù nên tôi nhận xét thấy anh là một thanh niên rất thông minh, lanh lợi, có óc sáng tạo và dường như có cả giác quan thứ sáu nữa vì có những điều tôi chưa kịp nói hết cho anh nghe, thì anh đã đoán ra tôi muốn nói gì rồi.
Lê Thanh Hùng cũng rất khôi hài và châm biếm. Tôi còn nhớ đã có nhiều lần anh than phiền với tôi là biết bao nhiêu năm nay, anh thèm ăn phở hoặc bún riêu quá mà không được ăn, vì các phạm nhân chung thân và tử hình trong trại tù, người thân trong gia đình không được quyền mang đồ ăn ở ngoài vào cho tội nhân nên chỉ ăn toàn đồ ăn Mỹ nấu trong trại tù để đề phòng tù nhân ăn đồ ăn nấu bên ngoài có thể bị ngộ độc.
Hôm nay anh cho biết là anh được vị Trưởng Trại (Warden) “báo tin mừng” cho anh biết trước là anh sẽ được cung phụng một bữa cơm biệt ly miễn phí (Free Farewell Meal). Anh muốn chọn cơm Tây, cơm Tầu, cơm Tây Ban Nha, cơm Việt Nam... tùy theo ý anh muốn, nhưng phải ăn trước 24 giờ trước khi bị hành quyết. Vừa nghe anh thuật “tin mừng” này xong, tôi nhớ ngay tới lời anh nói với tôi nhiều lần trước, là anh thèm ăn Phở hoặc Bún Riêu. Tôi liền đề nghị với anh là để tôi yêu cầu họ cung cấp món Phở hay món Bún Riêu cho anh ăn, mà gần 10 năm nay anh không được ăn một trong hai món này. Anh đã trả lời ngay:
-Thầy ơi! Ăn phở chỉ có một món, ăn cơm Tầu có nhiều món, không phải trả tiền, tội gì mà ăn một món?
Tôi thầm nghĩ câu trả lời này thật di dỏm, khôi hài, mà còn mang tính châm biếm nữa. Nói tóm lại, mỗi lần tôi ngắm nhìn vào bức tranh thêu Đức Mẹ Bồng Đức Chúa Giêsu mà anh tử tội này đã trao tặng tận tay tôi, tôi luôn bồi hồi xúc động với cảm giác thấy có một điều gì thiêng liêng ẩn hiện trong bức hình, tưởng chừng như anh thanh niên tử tội này đang đứng trước mặt tôi và trao tặng tôi vậy.
Cho tới bây giờ, với tôi, đây là một kỷ vật vô giá, mà tôi sẽ cất giữ nó trong suốt cuộc đời khi còn tồn tại và còn cho cả con cháu của tôi sau này. Bức tranh này còn được coi như là một cuốn nhật ký ghi lại tất cả những điều éo le, uẩn khúc, trong câu chuyện tình cảm thương tâm đầy nước mắt của người thanh niên tử tội tên Lê Thanh Hùng, người đã tâm sự chuyện lòng của mình cho tôi nghe qua nhiều năm tháng, khi anh còn sống trong tù, nhưng vì là chuyện riêng tư nên tôi không thể nào viết hết ra đây mà chỉ biết xin nguyện cầu Thiên Chúa đón nhận anh về với Ngài trên nước Thiên Đàng.


Sau cùng, người viết xin hẹn tái ngộ với bạn đọc trong một số báo khác để được tiếp tục kể lại những kinh nghiệm sống trong thời gian phục vụ tha nhân. Chân thành cảm tạ độc giả quý mến củả nguyệt san đã có rất nhiều sự khích lệ đối với người viết.

***

AN INVALUABLE SOUVENIR

By Deacon Nguyen M. San

 

Whoever lives in this world would have some special memories imprinted in his mind. One of these memories may include receiving some spiritual gifts whose impact carries for generations.  The writer of this story is not an exception to this rule, and he sincerely

wanted to share it with you:

 

It was an unforgettable period of time, more than 17 years ago, when working as a volunteer Certified Federal Prison Chaplain for the Catholic Archdiocese of Oklahoma City, Oklahoma, 

I wrote a report published on newspaper regarding the story of a man named Le Thanh Hung who was the first Vietnamese sentenced to death in state of Oklahoma. He committed a crime of killing his friend, who had been very close to him and considered as his brother by blood since the time they stayed in a Malaysian refugee camp.

The content of the article then was focusing on the motives, and relationship between the two men leading to the crime. One lent money to the other, then fighting among them broke out. Defendant Le used a knife to attack his friend and stabbed deeply to his heart.  His friend passed away and Le was sentenced to death.

In the article I also pointed out a number of objective legal issues of using a knife for self-defense; however, nearly 10 years after the killing, the person who used a knife to stab his friend was executed at McAlester prison, Oklahoma for his crime.

 

During his stay in prison of nearly 10 years, I was the one who frequently visited with him and consoled him, even at the time preceding his execution; he particularly asked me to be present on the day of execution so I coud pray for him.  As a Deacon I would pray God to love him and to forgive him of all faults he had committed. He recognized that intentionally or accidently he had committed a vicious crime. Moreover, as a prisoner under sentence of death like him, he wanted to see me at the last minute of his life when receiving a cocktail of toxic substance via a shot to his vein taking him out of this temporary world. I remembered that it was during this painful moment, he let me know that he was still a strong believer in God. As he knew for sure that God understood all what had happened, that he did not intend to kill and that he acted in self-defense. 

I realize that it is not necessary to repeat the details of what had been discussed related to the legal issue of his death sentence as this story has been widely publicized on news media. But I would like to present in this article a miracle occurred to him and a sarcastic story before his execution.

 

Well, it was a marvelous miracle that I fully experienced, it was not a dream - something that only God can give to people on earth.

 

Two weeks before his execution, I came to visit with him.  He kneeled down in front of me, he hold on his hands a roll of paper about 16 inches long, wrapping paper decorated with pink flowers covering the paper roll.  He respectfullly offered me  that gift and said:

  • Before the day leaving this world, I have a small gift to you for greatly appreciating your deeds. Over the past ten years, you had spent time visiting me in prison during the weekends and consoling me.  Besides helping me in religious and spiritual matters,

you had acted as my family’s representative in contact with defense attorneys to plead my cause. I don't know what to say, please accept this little gift showing my own gratitude and that of my family; when looking at this little souvenir you will remember me in your special prayers for me.

 

I was very touched when opening the package, it was a beautiful embroidery picture of Our Lady holding Jesus. I asked him how he got this beautiful picture to give me.

 

He said that about 6 months ago, he had a thought of giving me a gift bearing a special meaning in order to mark my special service offered to him before the day he would have to leave this world. Suddenly he thought about drawing a picture of Our Lady holding Jesus, which would mean a noble cause.  After he finished drawing, he wanted to embroider the picture of the Our Lady and Jesus to make it more attractive. The prison camp where he stayed was reserved for prisoners serving life sentence and those under death sentence; thus, the discipline was very strict. He lacked most of the tools and materials to implement his plan. He wondered if he wanted to knit, where the threads and the knitting sticks would come from. Even though he had all of these tools and threads he was not sure he would have achieved this task. If the jailer saw him doing this, they would have stopped his works. However, he still decided to do so and came up with bright ideas and explored all the possibilities.

First of all, he had to tear his orange uniform and slowly removed small threads from it to use them as wool fibers and converted chopsticks into knitting rods.  For hiding his activities in embroidery from jailers and other fellow inmates he had to do the works late into the night while everyone in the prison was asleep – After three months of hard working on the picture he had achieved his goal of finishing the art works.  In the end he asked an inmate serving life sentence to find some color pencils so he could use those to highlight the drawing marks of the picture of Our Lady holding Jesus.

If those who had known him before he was jailed, it was clear to them that he was just a computer technician working for an electronic company in Illinois. If they had a chance to look at this painting (photo attached), which was drawn and embroidered by his own hand while he was in the prison, they would have been amazed and believed that this had been a marvelous miracle which God blessed him. Even distinguished artists might not be able to produce such an embellished painting. The painting depicts the sacred meaning of the motherhood of Our Lady Mary toward Jesus.  It was so distinguished that the painting was accomplished in an awkward situation where tools, materials and freedom of the artist were lacking. 

 

Following the above, the writer would like to tell a sarcastic story of Le Thanh Hung, a prisoner under death sentence.

Three days before his execution, I came to visit him to see whether he may need something that I can help.

First, he asked me to invite a catholic priest to hear his confession because he knew that a deacon is not authorized to hear confession; and second, he requested my presence to witness his execution.  Both of his requirements have been answered by me, although he did not dare to have a priest present at his execution.  Nevertherless, both the priest and me were present at this crucial moment.  For nearly 10 years, I have frequently visited him in prison, I realized that he was a very bright, smart, and full of incentive person; and it seemed that he aslo has sixth sense. Sometimes I had not finished the talk I meant to share with him, he had already predicted what I wanted to say.

Le Thanh Hung was a humorous and sarcastic man. I remembered that many times he complained to me that he had not eaten pho and ground crab noodle soup for many years and he craved for these dishes.  However, he could not receive them as the strict rules of the prison, where he stayed, did not allow families to bring foods from outside to serve  the prisoners. Those rules were applied to avoid prisoners from potentially eating intoxicated foods prepared by people other than the prison staff. Thus, he had always eaten American foods provided by the prison.  

 

On that day (3 days before the execution) he had been informed good news by the Warden that he would be served with a “Free Farewell Meal”, whatever he preferred to eat either French, Chinese, Spanish, or Vietnamese foods..., but the meal would have to be served 24 hours before the time of execution. Just listening to him about this "great news", I immediately remembered what he had told me several times before that he craved for Pho or ground crab noodle soup. I immediately suggested to him for asking the prison staff to provide him with one of those dishes, which he had not have for nearly 10 years. He replied right away:

  • Deacon! Pho is only one bowl, Chinese meal has several dishes and free of charge, why should I just eat one bowl?

I think to myself that his answer is witty, humorous and also sarcastic.

 

In summary, every time I looked at and contemplating the painting of Our Lady holding Jesus that the prisoner under death sentence gave it to me, I was always sad, touched and felt like something sacred inside this piece of art, and like he was standing in front of me and offering me that precious gift.

Until now it has been an invaluable souvenir for me, I will secure it for the rest of my life and for future generations. This painting is also considered a diary recording all twists and turns in this heart-felt story of a young prisoner under death sentence named Le Thanh Hung; he, who had told me all personal intimate stories in months and years during his stay in prison.  However, those were private and I could not share them with you; I could only pray God for him and wish that God would take him to his kingdom.  

 

Finally, the writer would like to communicate with you again on this magazine to continue sharing remarkable experiences throughout his life during the time he served others. He truthfully thanks all readers of the media who enjoyed reading his articles on magazines or on his two books by encouraging words sent to him.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.