Hôm nay,  

Tháng Tư Nhìn Lại

26/04/202115:42:00(Xem: 4296)



Mỗi tháng Tư về, những người con Việt Nam tha hương như bị rơi vào hố khủng hoảng, những mộng mị đã trải qua sau 75, bị đi kinh tế mới hay nỗi hãi hùng khi vượt biển trước khi đến bến bờ tự do. Nhiều chuyện cũng phôi pha theo thời gian nhưng có những chuyện vẫn khắc sâu vào tâm khảm không thể nào quên.

Tôi cũng không ngoại lệ, lớn tuổi rồi nên cũng đã buông bỏ được nhiều hỉ nộ ái ố cuộc đời, có cái mình tự buông, có chuyện thì trí nhớ như đám mây mù bảng lảng, lúc nhớ lúc quên. Nhưng rồi có vài mảnh đời trong quá khứ, chợt hiện lên mồn một như mới xảy vào hôm qua. Thôi thì ghi lại một lần để khép lại một trang đời chơi vơi buồn bã. Những quyết định xé lòng người khi phải từ bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, xa hết người thân yêu không mong một lần gặp lại. Đau lòng lắm chứ nhưng quê hương đã không cho mình một nơi chốn dung thân. Một lần đi là một lần vĩnh biệt!

***

Cô gái ấy rời khỏi Việt Nam trong chuyến vượt biên định mệnh cuối cùng, một mình.

Lẽ ra nàng cũng muốn yên thân sau khi đất nước thống nhất một mối. Nhưng số cô truân chuyên, năm 76 đậu vào ĐHSP ban Anh Văn, học chỉ được nửa năm thì nhận được tờ quyết định cho nghỉ học vì lý lịch bằng giấy pelure xanh mỏng tanh mà thay đổi một phận người. Cô không bỏ cuộc, về lại địa phương miệt mài đi lao động rồi sang năm thi lại CĐSP AV, xong hai năm học nàng cũng không được bổ nhiệm vì lý lịch. Biết không còn đất dung thân trên chính quê hương mình nên cô và các em đã mơ đến một phương trời xa.

Mấy chuyến trước cô từng đi chung với các em của mình, bị bắt, bị bể. Cô đã từng bị giam ở Lao Thừa Phủ, từng chạy thục mạng đến bong cả da chân dọc theo bờ cát nóng đầy cây xương rồng ngoài cửa Tùng, cửa Việt, và suýt chết trong một chuyến đi bị bể ở Thuận An!!!

Cô được một bé gái đưa ra tàu lớn bằng chiếc xuồng nhỏ, không ngờ bị lộ, công an đã phục kích đầy trên tàu. Nhờ có người la lên nên cô bé xoay mũi xuồng và chèo lại vô bờ. Đêm 30 tối đen như mực, mái chèo khua tạo nên một làn lân tinh sáng loáng nên công an bắn súng theo. Tiếng đạn bắn chiu chíu trên đầu, cô cúi rạp xuống thuyền nghĩ rằng chắc đợt ni khó qua khỏi. Cô bé chèo thuyền vẫn mải miết, gần đến bờ, có lẽ cô sợ nếu có nàng là cô bị liên lụy nên cô đạp xuồng dìm nàng xuống nước và thoát thân một mình.

May sao, hồi nhỏ ở nhà Ngoại, đã từng bơi qua lại sông Hương và cồn Hến như rái nên cô trồi lên và cật lực bám theo vệt nước loang loáng đằng trước. Lên đến bờ vì quen địa hình nên cô bé lủi mất để cô đứng lơ ngơ giữa đêm đen không biết đây là chốn nào. Định thần một lát, cô thấy có bóng đèn xa xa nên đi lần tới. Tiếng đàn bà ru con ầu ơ trong nhà, cô đánh liều bước vào thú thật là vượt biên bị bể và xin trú nhờ. Người đàn bà nhân hậu đó đã nhen bếp lửa củi để cô hong khô quần áo. Ngoài đường tiếng súng ống lẻng xẻng, du kích chạy rầm rập, tiếng chó sủa tạo nên một âm thanh hỗn loạn. Người phụ nữ vẫn bình tĩnh nói với cô: Em ngồi hong khô áo quần đi, nếu tụi nó vào soát nhà thì em vào giường ôn mà nằm, để tui lo cho. Bấy giờ cô mới để ý đến cái giường có giăng mùng ở gian bên. Chị đàn bà vẫn ầu ơ ru con cho đến khi ngoài đường lặng im. Tờ mờ sáng, chị đưa cho cô một cái nón rách và bảo đi theo để chị đưa ra bến đò qua Thuận An lên Huế lại. Chuyến đó, một em gái cô bị bắt vì cá nhỏ đưa lên tàu sớm quá, cậu em trai út thoát được ở cửa Tư Hiền khi chủ tàu lên trình giấy tờ và bị tình nghi.

Lần cuối cùng là một chị hàng xóm quen, buôn bán hàng máy móc ở chợ trời Tây Lộc về báo tin có chuyến đi chắc chắn nhưng chỉ còn một chỗ và phải đi liền. Theo ước hẹn, cô về đứng gần nhà máy xay gạo ông Cúc, tay cầm cái nón, nghe xe máy nào dừng lại, bấm 3 tiếng còi là tự động leo lên không biết người dẫn đường là ai, phó mặc cuộc đời đưa đẩy đi bất cứ nơi đâu.

Qua đò Thuận An, về đến thôn Hoà Duân, được ém trong nhà một đêm để sáng mai đi sớm. May sao, người tổ chức chuyến đi là vợ chồng anh Lợi chị Anh, giáo viên và bạn thân dạy cùng trường với chị đầu của cô. Chuyến đi này khác hẳn những chuyến vượt biên thường tình khác vì đi vào buổi sáng lúc thanh thiên bạch nhật.

Kể ra thì cũng ly kỳ! Người tổ chức và ghe là của gia đình anh Lợi. Vì anh muốn đưa vợ và hai con trai cùng cậu em đi nên kế hoạch phải bảo đảm an toàn tuyệt đối với sự góp sức của một ông già khá giả trong làng để gởi gắm cô con dâu và cháu nội. Con trai của ông đã sang đến Mỹ hơn năm rồi, sợ lâu thì anh ấy thay lòng đổi dạ lấy Tây lấy Mỹ nên gấp rút đưa con dâu và cháu nội sang.

Vì sao phải đi ban ngày? Hồi đó phong trào vượt biên nở rộ, bờ biển được canh phòng cẩn mật nên khó đi thoát ngoại trừ mua bãi. Ông già và vài người khác lập mưu phao tin đêm đó có chuyến vượt biên nên du kích, công an ra đi tuần cả đêm, gần sáng mỏi mệt lết vô thì ngang nhà thấy ông đang làm thịt con chó sẵn tiện mời mấy chú ghé nhậu chơi. Khi thấy đủ mặt bá quan văn võ của đội đi tuần thì ông cho cô con dâu bồng con đi báo và lên thuyền luôn. Và cũng vì đi ban ngày nên có nhiều người đi hôi chật cứng cả ghe. Ra khỏi bờ một đoạn người ta mới bốc bớt những người đi hôi thả xuống biển cùng với một chiếc xuồng con để chèo vào. Thuyền an toàn ra khỏi cửa biển và đi mấy tiếng thì ra khỏi hải phận quốc tế, bấy giờ mọi người mới nhẹ nhõm và bàn tán râm ran. Cô được ngồi chung với gia đình chủ tàu, ăn uống thì khỏi lo nhưng mới đi được mấy tiếng là cô đã mửa ra mật xanh mật vàng. Thuyền đi được hai ngày thì gặp bão. Những con sóng lớn nhồi chiếc thuyền con như mèo vờn chuột. Ngọn sóng cao mấy thước tưởng chừng ập xuống là sẽ nhấn chìm tất cả vào lòng đại dương. Vậy mà không, con thuyền vẫn nhấp nhô trên mặt biển mặc cho mọi người nằm la liệt trên sàn, ói mửa vào nhau, chú thợ máy hét đến khản cổ để điều động một số thanh niên múc nước tát liên tục. Đến khuya bão lặng, mọi người nằm im tạm nghỉ đôi chút. Sáng ra, anh thuyền trưởng định hướng lại để tiếp tục cuộc hành trình thì mới khám phá ra cái la bàn không điều chỉnh được. Người tổ chức đã mua nhầm cái la bàn dổm đưa ra phía nào cũng chỉ hướng Nam cả.

Khi hiểu ra thì đã muộn, thuyền đã ra đến vùng biển nước màu tím thẫm, thả neo không đụng đáy. Chủ thuyền là anh giáo viên tin mình đọc được la bàn là ổn chứ không có kinh nghiệm đi khơi xa. Thợ máy thì có mà dân đi biển nhà nghề kinh nghiệm thì không. Con thuyền khi đó như một ngọn lá tre giữa biển cả mênh mông. Nhìn thấp thoáng xa xa như có con tàu lớn nên hy vọng lái tới gần để được cứu vớt. Đến gần thì đó là một trạm khai thác dầu của Trung cọng (vì nhìn thấy nhiều người đội nón có sao vàng trên đầu). Khi đến gần thì trên tàu phun vòi rồng xua đuổi, trong cái cảnh chín phần chết một phần sống, nước vòi rồng phun trúng thì chìm thuyền là cái chắc. Hắn nhìn thấy những chuyên gia người ngoại quốc đứng ở bong tàu làm dấu thánh giá là hiểu rồi. Đành phải lùi ra xa, mất phương hướng giữa biển cả mênh mông, thả neo lờ lững vì chạy nữa thì sợ hết nhiên liệu. Mọi người trên thuyền khi đó lặng im vì tình hình bế tắc, bi đát không lối thoát. Có một bà mẹ trẻ kiếm đoạn dây dài cột chặt tay của mình và ba đứa con nhỏ để có chết thì chết chung cả mẹ lẫn con, bà nói. Cô chỉ cảm thấy bình thản. Ừ, may mà mình đi một mình, có chết cũng không sao, chứ dẫn theo em út thì có phải ân hận không?

Con thuyền thả neo giữa biển hơn một tiếng đồng hồ thì bỗng đâu một đàn cá heo lượn đến bơi giỡn trước mũi thuyền, bên hông thuyền rồi lòn qua lòn lại dưới đáy thuyền. Những con cá heo khổng lồ, tưởng chừng chỉ cần hắn đội lưng lên là lật thuyền. Đàn cá heo bơi lượn khoảng 15 phút xong rồi tự dưng xếp hàng theo một hướng, trước mũi thuyền, sau đuôi thuyền, hai bên hông thuyền. Mấy người miền biển tin rằng cá heo đem điềm lành đến nên nổ máy đi theo hướng cá heo đã vạch. Chạy hú họa như vậy đâu cũng gần một tiếng bỗng dưng đàn cá heo lặn đâu mất tiêu không còn một con. Mọi người hoang mang, lại tắt động cơ và thả neo để con thuyền lênh đênh trên mặt biển.

Một lúc lâu sau, mọi người thấy xuất hiện một tàu đánh cá xa xa. Khi tới gần thì ngư dân biết là thuyền bị nạn vì không nổ máy và người say sóng nằm la liệt dọc ngang. Sau một hồi, tàu đánh cá thả xuống biển hai túi bóng lớn, một cái chứa mấy can dầu và túi kia có lẽ là thức ăn xong rồi đi mất. Mọi người trên thuyền bàn bạc với nhau. Nếu chèo tới lấy hai túi bóng cứu trợ thì cũng chỉ sống thêm mấy ngày, lấy dầu thì cũng chẳng biết chạy hướng nào mà những người trên tàu đánh cá sẽ an tâm và không cứu giúp mình nữa. Vì vậy nên mọi người cứ nằm yên chờ đợi và không nổ máy. Hai túi bóng cứ trôi dập dềnh mỗi lúc một xa.



Quả thật, vài tiếng sau, chiếc tàu đánh cá quay trở lại và ngạc nhiên khi thấy đồ cứu trợ vẫn còn trên biển. Họ cố gắng tiến lại gần để tìm hiểu nguyên nhân, họ là những người Hoa nói tiếng Cantonese. Trên thuyền thì không có ai biết tiếng Hoa, chỉ có một mình hắn biết tiếng Anh mà thôi nên anh trưởng thuyền nói hắn trình bày hoàn cảnh hiện tại và xin cứu giúp. Gió biển rạt rào và khoảng cách giữa tàu và thuyền quá xa nên nói không ai nghe ai được. Cuối cùng, họ ra hiệu thả dây xuống đưa cô lên tàu để nói chuyện. Cô sợ không dám lên một mình thì anh trưởng thuyền cử thêm 1 anh thanh niên lên chung với cô. May sao, ông chủ tàu đánh cá có cô con gái đi theo phụ việc nhân dịp nghỉ hè nên biết nói tiếng Anh. Sau khi trình bày, ông hỏi trên thuyền có bao nhiêu người. Con số 52 người làm ông sững sờ. Ông nói vừa mới ra khơi cho chuyến đi đánh cá 1 tháng nên không thể cứu giúp được nhưng ông sẽ cho người sửa máy (cô bịa là máy hư), cho lương thực, dầu và la bàn để có thể tự đi đến Hồng Kông.

Khi hai người thanh niên từ tàu ông mang đồ nghề lái xuồng nhỏ để sửa máy thì cô hoảng hồn, cô dùng hết sức bình sinh gào lên báo cho người trên thuyền biết để tìm cách tạm hủy máy. Anh thợ máy lành nghề không biết làm cách nào mà hai cậu kỹ thuật viên mày mò cả tiếng đồng hồ vẫn không sửa được cho máy nổ. Khi trở lại báo tin xấu thì ông chủ tàu suy nghĩ lung lắm. Ông nhờ cô con gái giải thích cho cô biết là cả tàu đánh cá của ông chỉ có 8 người: Ông, cậu con trai, cô con gái và thêm 5 bạn đi nghề thôi. Ông không thể đem 52 người lên tàu ông được. Sau một hồi thảo luận, ông bằng lòng chỉ cho phụ nữ và trẻ em lên tàu và buộc cô phải cam đoan an toàn, không cho phép người nào bén mảng đến khoang tàu của gia đình ông. Cô có trách nhiệm phải quản lý gần 30 người đàn bà con nít. Ông cung cấp gạo và cá, cô phải nấu cơm kho cá cho 52 người ăn nên năn nỉ ông xin thêm 1 cô gái chung thuyền phụ việc cho mình. Nấu xong chia đôi rồi phải thòng xuống cho mấy người đàn ông còn lại dưới thuyền. Tàu trực chỉ Hồng Kong kéo theo chiếc thuyền, đến nửa đêm cô nghe tiếng kêu gào tên mình: "Chị Sương ơi! Cứu tụi tui với, tụi tui sắp chết rồi!"

Thì ra, với vận tốc của tàu khi kéo theo chiếc thuyền nhỏ, con thuyền tròng trành lắc lư với vận tốc nhanh nên mọi người xâm xoàng, say sóng, mửa cả mật xanh mật vàng. Lại đi tìm ông chủ tàu thương lượng, xin ông cho mấy người thanh niên lên tàu và nói ông chủ thuyền của cô là một thầy giáo, có đem theo vợ và con nhỏ, sẵn sàng kết hợp với cô để giữ kỷ luật trên tàu.

Rồi ông cũng xiêu lòng, giăng dây trên bong, nhích đám đàn bà con nít vào sâu trong một tí, nhường phía bên ngoài cho đám đàn ông. Cô lại phải giải thích với anh trưởng thuyền để nhờ anh kết hợp giùm. Sau khi đưa hết mọi người lên tàu thì ông xả hết tốc lực trực chỉ Hồng Kong. Ba ngày sau thì đến trạm hải cảnh, tất cả mọi người được đưa lên xà lan nổi ở tạm. Cả gia đình ông chủ tàu đánh cá cũng bị tạm giữ để lấy cung vì họ sợ ông tổ chức đưa di dân lậu lấy tiền.

Ngày thuyền cô đến Hồng Kong (tháng 6, 1983) cũng là giai đoạn chính phủ bắt những dân tị nạn VN phải vào ở trại tù (closed camp) ở đảo Chimawan thay vì ở tự do và được phép đi làm việc ở trại Argyle (open camp).

Cũng chính vì vậy mà các đoàn báo chí đến tìm hiểu và cô được phỏng vấn ngay ngày đầu tiên vì biết tiếng Anh. Đại khái họ hỏi là lý do nào cô phải rời bỏ quê hương, cô có biết khi đến HongKong là phải ở trại tù không và cô mong ước gì cho tương lai.

Cô trả lời với phái đoàn CBS News và sau đó bản tin được phát đi bởi broadcaster nổi tiếng thời ấy là ông Dan Rather. Khi cô trả lời là vì muốn đi tìm tự do để có thể học hành, làm việc theo khả năng mình mà không bị giới hạn bởi sự trù dập xét theo lý lịch của chính quyền mới. Và tuy biết qua đây sẽ bị giam giữ trong trại tù trước khi được nước thứ ba nhận cho tỵ nạn nhưng cô vẫn bằng lòng đánh đổi để có thể tự do tiếp tục học hành theo ý muốn.

Sau này cô mới biết bản tin được phát đi khắp thế giới. Một người chị ở Mỹ và một người bạn ở Đức đã nghe bản tin và thấy cô trên TV. Và cuộc đời cô đổi thay qua lần phỏng vấn định mệnh đó. Một giáo sư người Mỹ đang giảng dạy ở Alberta University môn Chính trị Xã hội học cũng đã xem bản tin đó và có ý muốn giúp đỡ cô định cư để tiếp tục việc học hành. Ông đã gởi thư về ban giám đốc trại hỏi xem cô có muốn đi Canada không thì ông sẽ bảo lãnh. Vì nôn nóng đi định cư ở nước thứ 3 càng sớm càng tốt để làm lại cuộc đời nên cô bằng lòng. Thư qua tin lại rồi cũng đến ngày cô đến được Canada tại thành phố Edmonton thủ phủ của tỉnh Alberta.

Sáu tháng đầu cô được đi học Anh Văn để hội nhập. Xong rồi cô kiếm việc làm, lập gia đình, sinh con và có một cuộc sống hạnh phúc ở Canada - A truely paradise - Một đất nước yên bình.

Những tháng ngày ẩn mình ở trại tỵ nạn, cô khắc khoải nhớ thương những người còn ở lại và không bao giờ có hy vọng được gặp lại người thân yêu trong gia đình. Cô liên tục viết thư về cho người mẹ yêu quý đã hy sinh cả cuộc đời cho bầy con. Cô viết cho mấy đứa em tương lai bất định vì không được học hành. Đã lý lịch của Ba rồi thêm chị vượt biên thì mong chi mà vào đại học. Cô còn nhớ trong những lá thư viết về bao giờ cũng là nỗi nhớ quắt quay.

... Nằm ngửa nhớ nhà
Nằm nghiêng nhớ mạ
Nôn nao ngồi dậy
Nhớ hết mọi người ...

Mạ cô xót lắm nhưng đây là quyết định sinh tử đổi đời mà cô tự chọn. Cô tưởng trải qua bao cam go, tù tội chắc hẳn cứng cỏi, can trường hơn. Nhưng không, cô vẫn hiện thân là một cô bé mẫn cảm, dễ dàng rơi nước mắt khi thấy con ve ve bị tụi bạn nghịch chơi ngắt trụi cánh.

...Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà!
(Phạm Hữu Quang )

Cô gái nhỏ bé đó, bao nhiêu năm qua vẫn không quên được cái chết oan khuất của Cha mình, mỗi lần Tết đến là cô đã khóc thầm ướt bao nhiêu gối, vết thương trong lòng cô chưa bao giờ lành. May sau này người chồng khuyến khích cô viết lại câu chuyện "Đi Tìm Xác Ba" như một liệu trình chữa bệnh và quả thật công hiệu. Giờ vết thương của cô đã thành sẹo!

Một hình ảnh đã khắc sâu trong tâm khảm cô mãi mãi trên đường vượt biển là sau khi đưa hết những người từ thuyền nhỏ lên tàu lớn, ông chủ tàu đánh cá đã ra boong cúng vái và tự tay thả xuống biển những tờ giấy cúng như hình nhân thế mạng cho 52 người ông đã giành giựt từ tay thủy thần. Người đàn bà đã từng cột tay mình và 3 đứa con để cùng chết chung cũng quỳ xuống dưới chân ông và dâng hai tay một số nữ trang đem theo như một lời cám ơn cứu mạng. Ông từ chối không nhận một món quà nào hết.

Đến bây giờ lòng cô vẫn luôn ân hận đã không hỏi rõ tên ông để liên lạc sau này. Mỗi đêm tụng kinh và nguyện cầu trước khi ngủ, cô luôn cầu mong gia đình ông hưởng được phước lành cho cái ơn cứu mạng không biển trời nào sánh được. Những người đi chung thuyền sau này đã cám ơn cô, nói nhờ cô biết tiếng Anh nên cả thuyền được cứu vớt. Riêng cô, luôn nhớ đến ông chủ tàu người Hồng Kong như một ông Bụt, một Quán Thế Âm Bồ Tát hiện ra cứu độ cho 52 mạng người đã lâm đến bước đường cùng. Cô cũng nghĩ rằng có một bàn tay siêu nhiên huyền bí nào đó đã phù hộ mình và mọi người đến bến bờ tự do, vượt qua bao giai đoạn nằm chờ chết trong vô vọng. Cô nhớ đến ba, biết đâu ông linh thiêng ở cõi vô hình, dõi theo đứa con gái bé bỏng ông rất đỗi thương yêu đang gặp nạn. Không dưng mà đàn cá heo lại dẫn dắt con thuyền nhỏ của cô đến nơi các tàu đánh cá hay qua lại. Không dưng mà cô con gái ông chủ tàu biết tiếng Anh lại theo gia đình đi biển một chuyến cho biết để có thể làm sợi dây liên lạc giữa ba mình và cô.

Sống mỗi ngày, mỗi giờ, cô tự nhủ phải sống sao cho xứng đáng với ân huệ được gặp trên đường vượt biển và đường đời. Có lẽ người cha đã chết oan ức năm Mậu Thân luôn dõi theo và phù hộ cho cô?!?
Cuộc đời cô còn trải qua những cuộc tử sinh vì bệnh tật sau này nữa nhưng rồi cũng vượt qua hết.
Vì thế, cô sống thật nhẹ nhàng. Được mất hơn thua không còn ý nghĩa chi đối với cô cả. Sống khiêm tốn, ăn mặc đơn giản, niềm vui là thỉnh thoảng giúp được người này một ít, người kia một ít. Những cảnh đời bất hạnh vẫn đầy rẫy quanh đây. Cô thấy mình đã nhận được đầy ơn phước để vượt qua mọi nghịch cảnh, cô biết mình may mắn hơn người để có được một cuộc sống bình an như hôm nay nhưng trong thâm tâm vẫn là một người di tản buồn như lời bài hát của nhạc sĩ Nam Lộc mỗi tháng Tư về.

" ... Chiều nay có một người đôi mắt buồn
Nhìn xa xăm về quê hương rất xa
Chợt nghe tên Việt Nam ôi thiết tha
Và rưng rưng lệ vương mắt nhạt nhòa...

Tháng Tư nhìn lại.
Susan Nguyen.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.