Hôm nay,  

Lá Cờ Trong Tim

27/04/202110:18:00(Xem: 3513)

1

Ngày gần cuối tháng Tư, ông ngồi với một lá cờ nhỏ trên tay. Đôi mắt ông nhắm nghiền. Những ngày tháng cũ bay vùn vụt trong trí nhớ của ông. Như những mảnh ghép, không theo thứ tự thời gian, mà theo màu.

Có một ngày, ông đã tỉnh dậy vì tiếng gọi của thằng cháu nhỏ. Tiếng gọi thất thanh: 

“Ông ơi! Ông ơi!” 

Cháu đặt vào tay ông một lá cờ bằng giấy, nhỏ bằng một trang vở, có nền màu vàng và kẻ ba sọc màu đỏ. Những sắc màu này như một liều thuốc bổ thật mạnh, khiến ông nghĩ mình không thể chết. Không thể nào chết được! Ông không biết tại sao mình lại nằm trên chiếc giường này, và nằm đã bao lâu. Ông thử, nhưng không làm nổi một động tác nhỏ nào. Ông cố mấp máy môi, nhưng không phát ra được một lời nào. Chỉ có một ý nghĩ trong đầu: “Mình không thể chết!”

…Vâng, ông đã bị stroke. Ông đã mê man trên giường bệnh gần một tuần lễ. Và ông đã trở lại. Ông phải trải qua một tiến trình lâu dài và khó nhọc để trở lại. Điều may mắn cho ông là gia đình săn sóc, khích lệ ông. May mắn nữa là thằng cháu nhỏ thường trò chuyện với ông. Cái lá cờ ông tặng cháu, lại trở thành một động lực to lớn cháu trao ông để ông can đảm chiến đấu với căn bệnh, với những khó khăn kéo dài tiếp theo. 

Ngày ấy qua đã mười hai năm. Giờ đây, thằng cháu nhỏ của ông được hai mươi hai tuổi. Cháu cũng vẫn thường trò chuyện với ông mỗi khi về nhà. Cháu cũng hay nhắc lại chuyện cháu nghe ba cháu, người con út của ông, nói rằng khi còn học trung học, ba cháu đã khóc mà xin cô giáo cho treo cờ vàng trong ngày hội, bởi vì đó là lá cờ mà những người Việt quốc gia đã giữ gìn và mang theo trên mọi nẻo đường đi tìm tự do. Và cô giáo, cũng như nhà trường, đã đồng ý. Treo cờ vàng, không phải cờ đỏ.

Có một ngày, trong thời học sinh của ông, ông ngước lên nhìn trời trong khi đang chào cờ. Bầu trời xanh ngắt. Lá cờ vàng tung bay trong gió. Chào cờ, và hát quốc ca, có lẽ người học sinh nào cũng nghĩ đó là một chuyện đương nhiên trong đời. Nhưng bầu trời xanh quá, ông muốn reo lên. Một cánh chim vụt bay qua nền xanh đó. Ông nhắm mắt lại, thưởng thức một niềm vui không tên. Và tưởng tượng, cậu học sinh lúc đó, mình là cánh chim kia, nhìn xuống sân trường để ngất ngây với một màu trắng. Màu trắng áo học trò.

Có một ngày, người thanh niên mặc vào màu áo trận. Màu xanh lá cây rừng. Nghe lãng mạn như lời trong những bài thơ, bài hát. Nhưng thực tế là súng đạn, là pháo bom, là máu lửa, là những vết thương. Là những khi reo vang vì treo được lá cờ trên những vùng tái chiếm. 

Có một ngày, không, phải nói rất nhiều ngày, trong mắt ông chỉ là màu xám và màu nâu. Màu của những bộ quần áo lao động. Màu của tủi buồn dành cho những người không bỏ anh em, không bỏ bạn bè. Màu của đất rừng những ngày khổ sai, trồng trọt, đào bới tìm chút khoai củ. Màu của đất khi những người tù phải tự đào để chôn cất bạn tù bỏ mình vì bạo bệnh. Không có hành khúc nào dành cho những người ấy. Chỉ có những vần thơ, những nốt nhạc nén chặt trong tim, tự lắng nghe trong màu đen của những đêm thao thức nhớ nhà.

Được chào cờ và hát bài quốc ca của mình, không phải chuyện đương nhiên. Điều đó, chỉ những người mất quê hương mới cảm nhận được. Những người tù như ông, chỉ còn một cách, nhắm mắt lại và hát thầm bài quốc ca, với lá cờ vàng bay bổng trong tim.


2

Bé Tú!”
Ông lại gọi thằng cháu là “Bé Tú” dù cháu đã hơn hai mươi tuổi. 

“Dạ, ông, mình đi bộ nhé ông!”

Đứa cháu nội thông minh, chịu tìm hiểu, dù bận việc học nhưng cũng rất gần gũi với ông. Tú ở trong trường, thỉnh thoảng về, lại cùng ông tâm sự. Sau khi bị stroke, sức khỏe của ông kém đi nhiều. Bà cũng không còn nhanh nhẹn. Các bác, các cô thay phiên nhau hoặc cử người đến giúp ông bà. Vào năm đại dịch, Tú rút về nhà học trên máy, có thì giờ ở bên ông nhiều hơn. 

Hai ông cháu đi bộ, qua những con đường quen thuộc gần nhà. Khác với ngày xưa, giờ đây ông phải dùng cây gậy. Ông tự nghĩ mình may mắn lắm rồi, vì sau thời gian tập luyện ông đã có thể tự đi, dù cũng phải cần có ai đó đi kèm khi ra ngoài.

Trên con đường hai ông cháu đi bộ trong khu xóm yên tĩnh, có nhiều nhà treo lá cờ Mỹ quanh năm. Đối với họ, treo lá cờ của nước Mỹ hầu như là một sự đương nhiên. Và mỗi khi họ chào cờ, trong tiếng nhạc hoặc trong lời bài quốc ca Hoa Kỳ, họ đưa bàn tay phải đặt lên ngực trái, nơi có trái tim. Ông chạnh lòng. Người Việt mình khi chào cờ không đặt tay lên ngực, nhưng, lòng rộn ràng theo những lời “Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi!” Và như ông, bây giờ, nghe thổn thức với những lời hát này. Sống trên mảnh đất tự do, không hề lo sợ, không bị cấm đoán khi mang lá cờ vàng, nhưng ông vẫn luôn mang tâm trạng buồn nhớ, mất mát. Ông vẫn còn thiếu quê hương!

Khi về gần đến nhà, Tú nhắc ông:

“Ông ơi! Sắp đến ngày ba mươi tháng Tư…”

Ông gật đầu:

“Phải.”

“Mỗi năm đến ngày này ông đều nhắc treo cờ. Vậy con về treo cờ ha ông!”

Ông bỗng nghe như bước chân khựng lại. Ông thoáng thấy mình muốn ngã.

“Ông sao vậy ông?”

“Không sao con à! Ông chợt nhớ đến câu chuyện trao đổi với ông cụ John thôi.”

Tú im lặng. Ông cụ John, trạc bằng tuổi ông, là người hàng xóm kế bên nhà, rất dễ thương, thường chào hỏi trò chuyện với ông. Ông cụ John treo lá cờ Mỹ cũ rách trước nhà, chờ người con trai đi lính trở về để cùng thay một lá cờ mới. Vào cái ngày bạo loạn ở Điện Capitol, ông cụ John đã ra trước sân, gọi ông của Tú. Nét mặt ông hoảng hốt. Ông mở cái ipad, chỉ vào một trang tin và nói với ông của Tú:

“Ông xem, sao cái lá cờ của ông lại bị xếp vào chung với những lá cờ này?”

Hôm đó, ông của Tú chỉ biết lắc đầu khổ sở. Ông cụ John hiểu ý, không nói thêm.

Cũng hôm đó, cô Tư của Tú, hớt hải chạy về nhà, trốn biệt trong phòng. Đến tối khuya, cô mới xuất hiện, và nói rằng cô đã cùng các bạn nhập vào đám đông đi “đòi công lý.” Nhưng cô đã kịp chạy tránh đi, khi thấy lá cờ vàng bay phấp phới trên nóc Điện Capitol. 

Ngày hôm ấy, một ngày đối với ông thật khủng khiếp, ông tưởng như nó cũng đen tối như cái vùng đen mà ông từng chìm trong đó. Ông bỏ cơm. Ông không nói một lời. Ông không thể tưởng tượng được cái lá cờ thiêng liêng của đất nước lại bị sử dụng như vậy. Đau khổ hơn nữa là một người con của ông, và nhiều người nữa, không hiểu giá trị của lá cờ này, nỡ dùng nó như một vật trang sức, để phô trương, để tự nhân danh những người lính cao cả của một thời. Ông từng là học sinh, từng làm thầy giáo, từng làm lính. Bài học Công Dân thấm thía vô cùng! 

Ngày hôm sau, ông cầm lá cờ vàng, cái lá cờ đánh thức ông dậy sau những ngày hôn mê, ông ngắm nghía, và ông khóc. Ông nghĩ chắc từ nay ông sẽ cất nó vào tim.

3

“Bé Tú! Ông đã tám mươi tư tuổi. Bạn của ông, có người khỏe mạnh hơn ông, còn lái xe, còn chơi thể thao, còn đàn hát. Có người nằm trong nursing home. Có người đã qua đời. Bạn của ông, có người còn chưa được biết tuổi già, vì họ đã gửi mình vào đất trong thời chiến. Bạn của ông, có người trở thành tàn phế sau khi dâng tặng một phần thân thể cho đất nước. Và ông, khi ông ra khỏi những nơi gọi là “trại cải tạo” ở rừng sâu, núi cao, ông biết rằng ông đã để lại tuổi xuân của mình trong đó. 

Bé Tú! Ông chọn nơi này làm quê hương thứ hai, có thể sẽ là nơi ông gửi nắm tro tàn. Ông không có cơ hội góp phần xây dựng mảnh đất của ông cho vẻ vang hơn. Nhưng ông, cũng như đại đa số đồng bào của mình, đều trân trọng nền dân chủ tuy ngắn ngủi nhưng tốt đẹp của nước Việt Nam Cộng Hòa. Không những thế hệ của ông, hay thế hệ của các bác, các cô và ba của con, mà cả những bạn trẻ chưa từng sống trong thời gian có đất nước tốt đẹp ấy, nhưng biết tìm hiểu, biết vượt ra khỏi bức màn vô hình che mắt họ, họ đã ao ước, đã trân trọng nền dân chủ đó biết bao. Chính vì vậy mà có những người đã phải vào tù, đơn giản chỉ vì nói lên sự thật, chỉ vì muốn đem những bài học chính trị căn bản đến cho người dân. Có bạn trẻ ra tòa với chiếc áo “ba sọc” và niềm hãnh diện. Ông ngưỡng mộ họ. Họ ra tòa cộng sản chỉ vì yêu mến lá cờ này, lá cờ mà các bạn chưa hề được đứng chào. 

Chưa hết, bé Tú ơi! Có bạn được đi du học, đến đây, đã mua cho được một lá cờ vàng, giấu giếm đem về nước, coi như một báu vật. Một miền Nam tự do đã mất, nhưng sẽ sống lại, ít nhất là trong lòng người. Và khi người ta nhận rõ giá trị của cái đã mất đi ấy, người ta sẽ làm cho nó hồi sinh.

Ông thương lá cờ đó như thương tuổi hoa niên trong sáng của mình. Lá cờ bằng vải, bằng giấy, hay chỉ là ba sọc đỏ Bắc Trung Nam vẽ trên nền vàng, in trên khăn quàng, trên áo, đều là biểu tượng của một đất nước đáng tôn vinh. Và giờ đây, trên những xứ sở cưu mang người Việt, lá cờ đó là biểu tượng của cộng đồng người Việt tự do, của những người Việt tử tế, biết trân quý nền dân chủ của quê hương thứ hai. Lá cờ ấy cũng phải qua nhiều lần đấu tranh khó khăn để được công nhận.”

Tú yên lặng lắng nghe ông. Thuở đặt lá cờ vào tay ông, Tú chỉ biết đó là hạnh phúc của ông. Bây giờ, Tú đã hơn hai mươi tuổi, Tú biết thêm nỗi đau mà ông mang theo cùng lá cờ đó. 

Cô Tư của Tú đứng ở cửa, trên tay cầm lá cờ vàng mà nhà ông thường treo trong những dịp đặc biệt.

“Ba! Ba cho con treo lá cờ để tưởng niệm ngày ba mươi tháng Tư?’

Ông gật đầu:

“Ừ, con treo đi! Bé Tú, phụ cô Tư nghen con! Chắc chắn, sẽ có những người đi đường dừng lại và hỏi chúng ta nhiều câu khó trả lời. Nhưng các con đừng ngại. Hãy giải thích cho họ hiểu. Đây là lá cờ di sản đáng hãnh diện của người Việt chúng ta.”

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Tháng Tư, 2021




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi xin kể bạn nghe câu chuyện về hai ngôi làng, một của người Bahnar và làng kia của người J’rai trên vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam, bây giờ được nhập chung là tỉnh Gia Lai-Kontum. Nói rõ hơn một chút, Làng Hồ, ngôn ngữ Bahnar là Kontum; Làng Đuôi, tiếng J’rai là Pleiku...
Làm người Huế là đã mang một cái “nghiệp” tha hương. Vì đất thì chật mà lòng người thì rộng lớn nên không giữ được những bước chân ôm mộng viễn xứ sông hồ. Huế kỳ cục, ở thì không thấy thương mà đi xa rồi mới quay quắt nhớ. Nhớ đất, nhớ quê có khi di lụy cả một đời…
Nhà Trần đã khởi nghiệp với năm vị vua liên tiếp đều là những bậc anh hùng. Mặt ngoài các ngài đã lập được những chiến công hiển hách, đẩy lùi được mấy cuộc xâm lăng của lũ cường khấu phương Bắc. Mặt trong các ngài lại giỏi việc văn trị, cố gắng lo cho muôn dân được sống trong cảnh no ấm, yên vui. Thời kỳ vinh quang, thịnh vượng đó đã kéo dài gần một trăm năm...
Cầu Hội có dáng “hình thang” thật đơn giản, cao và thông thoáng. Chỉ là chiếc cầu gỗ mảnh khảnh nên nó lại phù hợp, hài hòa với sự êm đềm lắng đọng của cảnh vật chung quanh. Vì cầu Hội cao và thông thoáng nên thuyền qua lại ngược xuôi dưới gầm cầu được dễ dàng. Dưới gầm cầu, bóng núi và mây vẫn lung linh, trôi chảy theo dòng suối mà không bị vướng mắt, hay bị cắt ngang hoặc che lấp...
Tim, mối tình đầu của Lily vừa chia tay, anh ta đã có người yêu khác. Lily đang thất tình đang đau khổ. Tim làm việc ngành tài chính ngân hàng, chàng trai có công việc tốt, đẹp trai, lịch sự đỏm dáng, luôn khéo ăn nói làm vừa lòng mọi người...
Như Ý đã trên bốn mươi, nhan sắc trung bình hay hơn trung bình một tí. Khuôn mặt trái soan, mái tóc dài, cao trên thước sáu đã níu lại được cái dáng đi hấp tấp, nhanh lẹ của cô.
Ở đất Sài Gòn, vào những đêm giao thừa xa xưa hầu như gia đình nào cũng bỏ lệ nhắc bọn trẻ đi ngủ sớm. Ở nhà tôi, trong khi mấy đứa em được tha hồ xem chương trình ti-vi đặc biệt chủ đề mừng năm mới, tôi được phụ mẹ tôi chuẩn bị mâm cúng đón giao thừa đúng 12 giờ khuya. Rồi khi mẹ tôi cùng mấy bà hàng xóm đi Lăng Ông Bà Chiểu, tôi cũng được tháp tùng.
Từ tờ mờ sáng, chúng tôi đã chuẩn bị xong và sẵn sàng cho cuộc đi chơi hôm nay. Mỗi người trong chúng tôi đều đeo trên vai một chiếc ba-lô nhỏ, trong đựng vài bộ quần áo đủ để thay đổi đôi ngày. Chúng tôi không quên sắp thêm chút ít thức ăn dọc đường, thêm vài ba chai “nước suối” nhỏ và ít trái cây trước khi ra khỏi nhà...
LTG: Viết chưa xong bài viết hàng tuần đã nhận tin nhà thơ Phan Xuân Sinh vừa qua đời ở Houston do bệnh tim mạch ngày 28 tháng 02 năm 2024. Thêm một người anh xứ Quảng ra đi. Cha sanh mẹ đẻ anh nguyên vẹn, nhưng chiến tranh đã lấy mất của anh một bên chân khi anh làm sĩ quan Thám báo bên bờ sông Thạch Hãn năm 1972. Anh không oán hận gì vì từ trong khói súng mịt mù của mùa hè đỏ lửa anh đã từng viết cho người lính Bắc phương, “Nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu/ bày làm chi trò chơi xương máu/ để đôi bên thêm mầm mống hận thù/ ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu/ chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc…” Bây chừ thì anh đã có thể đi uống rượu thoải mái với những người anh em bên kia chiến tuyến cho thoả lòng anh không thích hận thù, tâm anh chỉ thấy anh em một nhà chém giết lẫn nhau làm đau lòng cha ông dựng nước… Chúc anh lên đường khoẻ nhẹ tâm linh sau cuộc đời nhiều uẩn khúc, thiệt thòi với chiến tranh và hoà bình trên quê hương chúng ta.
Khoảng chín giờ tối, tôi lặng lẽ rời trường đi về hướng giếng Cây Trâm như lời hướng dẫn. Đèn đường lưa thưa, nên đoạn đường tối lờ mờ không nhìn rõ mặt người. Đêm như lặng lẽ bắt đầu với vài cơn gió hanh hanh mùi rạ khô dọc ven đường...
Từ sáng sớm tinh mơ, chúng tôi đã thức dậy để chuẩn bị cho chuyến đi chơi chùa Hương hôm nay. Nhìn Thi, ở cái tuổi lăm, mười sáu trăng tròn tôi không thể không nhớ tới bài thơ “Chùa Hương”...
Cô Tư tôi (tên cô là Ngọc Quỳnh) dáng người thanh thoát, gương mặt sáng, đôi mắt đẹp, đài các. Năm nay bước qua tuổi thất thập nhưng vẫn khỏe mạnh nhanh nhẹn, dấu ấn thời gian vẫn chưa xóa hết nét xuân sắc một thời. Cô có một mối tình “thời xa vắng” thật lâm ly, và bi văn đát. Hôm nay giấu cô, tôi kể lén cho mọi người nghe chơi...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.