Hôm nay,  

Bắt Cá Bằng Đầu Đạn Cà Nông

09/06/202115:58:00(Xem: 5641)

                                                      

blankblank

  Đầu đạn pháo 155 ly. Phần tam giác nhọn màu bạc là ngòi nổ (fuse). Hình internet.

Uncovering the Story of One of the Vietnam War's Bloodiest Battles

      Đơn vị pháo binh Việt Nam Cộng Hòa và súng cà nông 155 MM trước năm 1975. Hình Internet.

Câu cá là một thú vui tao nhã và nhàn hạ, nhưng chỉ bắt được ít cá chứ không nhiều. Đánh bắt bằng lưới và tàu thuyền thì được nhiều hơn, nhưng phải sắm sửa vật dụng, tàu bè, chắc chắn tốn kém nhiều tiền. Trong cuộc sống, khi đi làm phải chịu nhiều áp lực công việc, nhiều người chọn câu cá như một thú vui xả căng thẳng ở chỗ làm. Tôi chẳng bao giờ sắm cần câu để tự mình đi câu vì tôi không có số “sát cá”. Tôi đã thử mấy lần theo bạn bè đi câu mà chẳng bao giờ câu được con cá nào. Muốn ăn cá, tôi vào chợ “câu” là chắc ăn. 

Nhưng có 1 lần trong đời tôi chẳng tốn kém gì mà vẫn bắt được rất nhiều cá, cả 5, 6 bao tải cá, ăn không kịp phải phơi khô. Tôi xin kể cho bạn làm thế nào tôi bắt cá được nhiều, nhưng xin bạn đừng bắt chước theo tôi với kiểu nói quen thuộc trên TV bây giờ: “Do not try this at home”.

Những ngày còn trong nước, khoảng thời gian năm 1975, 1976, tại ngã ba cây số 67 trên đường đi ra Bà Rịa, Vũng Tàu, có một vùng kinh tế mới tự túc tên là Bầu Cạn. Thời đó cả nước đói thê thảm, cơm không có ăn phải thay thế bằng khoai sắn, đậu bắp. Thịt cá là một sự xa xỉ không ai dám mơ. Để sống còn, tôi phải đi sâu vào rừng để phát hoang, phá rừng làm rẫy và miếng đất của tôi nằm cạnh một giòng suối thật đẹp và khá rộng. 

Một hôm tôi đang cuốc đất giữa rừng, lưỡi cuốc của tôi chạm phải một vật gì cứng nằm dưới đất, tê rần cả tay, lưỡi cuốc cong quắn lại. Tôi nhìn kỹ thấy một miếng kim khí đã rỉ sét còn in nhát cuốc chém vào. Tôi đào bới xung quanh vật đó và khám phá ra đó là một đầu đạn cà nông chưa nổ. Tôi toát mồ hôi lạnh vì biết mình may mắn còn sống sót. Đã có nhiều người chết oan vì cuốc trúng đạn, bom bi trên đất của họ, nó phát nổ gây chết chóc và thương tích cho rất nhiều người.

Tôi cẩn thận đào rộng ra chung quanh cái đầu đạn và ước tính nó dài khoảng trên 60 cm, đường kính khoảng 15 cm. Tôi lấy mấy thân cây khô và đá tảng xếp xung quanh làm dấu, rồi tiếp tục cuốc cho xong mảnh đất để còn gieo hạt bắp chiều nay. Giờ nghỉ trưa, tôi đi bộ qua chòi kế bên kể cho bác Thành nghe câu chuyện ban sáng vì bác vốn là lính Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Gia đình bác mới lên phá rừng kế bên tôi nên hai bên vẫn qua lại với nhau thân thiết. Bác qua coi cái đầu đạn và cho biết đây là đầu đạn pháo 155 ly của lính mình bắn vào chỗ trú ẩn của Việt Cộng ngày xưa. Bác là Thượng Sĩ già thuộc binh chủng pháo binh chuyên ngành đạn dược nên bác biết rành rẽ nhiều loại đạn pháo khác nhau.

Mấy hôm sau, khi chúng tôi đã gieo hạt xong, mọi người đều rảnh rang, bác Thành qua chòi tôi chơi, ngồi uống trà và hút thuốc lào. Sau khi kéo một hơi dài lút nõ điếu, bác từ từ ngửa cổ nhả một làn khói dài và lên tiếng:

- Tôi biết một cách bắt cá bằng cái đầu đạn mà cháu đào được bữa hôm kia. Nếu cháu đồng ý, bác cháu mình hợp tác bắt cá, rất nhiều cá. Cháu chỉ cần kiếm cho bác 1 cái lưới nhỏ bề ngang bằng chiều rộng con suối là xong.

Bằng một giọng chậm rãi từ tốn, bác giải thích cho tôi biết thêm về trái đạn 155 ly. Đầu đạn này nặng  43.2 kg., được nhồi 6.6 kg thuốc nổ TNT bên trong. Khi được bắn đi, tầm xa có thể đến 20 km., khi va chạm vào mục tiêu, vòng quay đạt đến một tốc độ nhất định, ngòi nổ nẹc lửa nhờ một chất hóa học làm trái đạn nổ tung tạo ra sức ép và mảnh đạn có sức sát thương mạnh. Sở dĩ đầu đạn này không nổ có thể vì chưa đủ vòng tua hay vì 1 lý do gì đó nên rơi xuống đất mà không phát nổ. 

Mới đầu tôi hơi sợ khi chạm đến trái đạn, nhưng bác Thành tự tin nói chẳng có gì đáng sợ cả, nó đã không nổ thì không thể nào nổ đươc, ngoại trừ mình không biết lỡ tay lấy búa đập vào hạt nổ của nó tạo nên tia lửa thì nó mới phát nổ. Bác phụ khiêng một đầu, tôi một đầu, đặt trái đạn lên yên xe đạp và tôi thồ về chòi của mình. Bác và tôi khiêng đầu đạn đặt nó gần một gốc cây rợp bóng mát cách chòi tôi khoảng 100 mét. Bác thong thả lấy ra một cái búa nhỏ và một cái đục. Bác khuyên mọi người dang ra xa, đi qua bên kia gốc cây và vào chòi ngồi chơi đợi bác làm việc.

Tôi tò mò không chịu rời đi, nhưng vẫn sợ chết nên đứng sau gốc cây to, ló cái đầu ra ngay sau lưng bác quan sát coi bác làm gì. Bác vừa làm vừa giảng giải cho tôi một cách chậm rãi, bác nói phải rất cẩn thận với thứ chết người này, một nhát đục trật chỗ thì chết cả đám. Bác lấy búa gõ nhẹ chung quanh phía đầu đạn cho nó bong rỉ sét ra. Bác lấy một chút dầu ăn, nhỏ vài giọt vào kẽ hở chỗ phần răng vặn vào trái đạn giữa ngòi nổ (fuse) và đầu đạn, rồi bác vào chòi uống nước trà và tiếp tục hút thuốc lào, không tỏ vẻ gì vội vã. 

Hơn một tiếng sau, bác trở lại gốc cây và tiếp tục công việc. Bác bắt đầu đục cái ngòi nổ theo chiều ngược kim đồng hồ. Tôi nhìn theo mỗi động tác hai bàn tay bác gõ nhè nhẹ trên đầu núm trái đạn mà nín hơi không dám thở mạnh. Bác xoay tròn trái đạn, tiếp tục đục hạt nổ rất chăm chú và cẩn thận từng ly một. Tôi vẫn im lặng, không cả dám ho, sợ làm bác giật mình gõ trật búa, nhưng tai và mắt vẫn dõi theo từng cử động, từng âm thanh bác gõ lên cán đục. Hai bàn tay bác lúc nhanh lúc chậm, khéo léo  vừa làm vừa thỉnh thoảng ngừng lại một chút, nheo mắt lại quan sát rất kỹ từng vết khấc trên hạt nổ. Đầu hạt nổ từ từ được nới lỏng ra. Thời gian như cô đọng lại, ngừng trôi, chỉ còn tiếng lạch cạch vang lên giữa buổi trưa oi bức. 

Trán bác mồ hôi vẫn nhỏ giọt có lẽ do nóng bức và hồi hộp. Bác cứ đục từ từ, thật chậm, rất kiên nhẫn cho đến khi bác có thể dùng cây kìm kẹp và vặn phần ngòi nổ đó ra khỏi trái đạn. Lấy khăn quàng cổ ra lau mồ hôi trên trán, bác thở phào nhẹ nhõm và cho hay công đoạn khó nhất đã xong và không còn phải lo sợ gì nữa vì phần hạt nổ đã rời ra. Ở đầu trái đạn bây giờ là một cái lỗ trống và bên trong là thuốc nổ màu vàng nhạt đóng cứng hình tròn như cục xà bông.

Bác nhờ tôi đi chặt cho bác một khúc tre nhỏ dài cỡ nửa thước mà không có đốt tre ở giữa. Trong khi tôi đi kiếm tre, bác dùng một thanh sắt nhỏ dài độ 10 phân đút vào lỗ của trái đạn và cố gắng đục nhè nhẹ làm vụn thuốc nổ ở bên trong, càng vỡ ra nhỏ càng tốt. Bác lấy ra một ít thuốc nổ để bên ngoài. Khi tôi trở lại với cái ống tre, bác chặt vát một đầu ống để đút vào cái lỗ ở đầu trái đạn một cách vừa khít. Bác bốc bột thuốc nổ và rải dọc vào ống tre. Xong xuôi, bác hỏi sẵn sàng chưa. Tôi gật đầu. Bác bật diêm châm lửa vào vụn bột thuốc nổ. Một tia lửa nháng lên cháy xèo xèo dẫn vào trong trái đạn.

Tôi vội vàng ôm trái đạn, vác lên vai, chạy xuống bờ suối, đặt đầu đạn nằm trên bờ, và nhúng đầu ống tre xuống nước theo lời chỉ dẫn của bác Thành. Lửa thuốc đạn vẫn cháy, khi ống tre được nhúng xuống dưới mặt nước, vì không đủ dưỡng khí, lửa không cháy bùng lên được nên biến thành khói cháy ngầm, phát ra những tiếng lụp bụp và nước sủi bọt, rồi một làn khói nhẹ và mỏng tỏa lên trên mặt nước, có thể ngửi được mùi hôi của thuốc súng. 

Đợi một vài phút cho đầu đạn cứ tiếp tục cháy ngầm và nhả khói nhẹ đều đều, chúng tôi đi xuống cuối giòng nước cách đó vài trăm mét và giăng một cái lưới chặn ngang rồi leo lên bờ ngồi chờ.

Khoảng 15 phút sau, tôi thấy nhiều loại cá nổi lên mặt nước, có dấu hiệu say thuốc. Chúng bơi lờ đờ không còn nhanh nhẹn như thường ngày. Một số bơi ngửa phơi bụng trắng hếu. Chúng tôi chỉ việc lội xuống suối và bắt cá bằng tay hoặc bằng vợt đã chuẩn bị sẵn. Sau một tiếng thì cá nổi lên đầy mặt nước, vợt không xuể. 

Chúng tôi bắt đầy 5 bao tải cá có thể lên đến vài trăm ký lô. Trong lúc đói khát và thiếu thực phẩm trầm trọng thì đây là một bữa đại tiệc để ăn uống thỏa thích. Có điều là thịt cá hơi đắng và vương một chút mùi thuốc súng. Nhưng chẳng nhằm nhò gì, chúng tôi ngồi bên bờ suối, uống rượu đế, nhậu với cá tươi thoải mái mà chẳng lo lắng sợ bị ngộ độc gì. Hai cô con gái bác Thành, chị Lập và cô Loan, phải ngồi cả ngày hôm đó để mổ bụng cá moi ruột để chúng tôi phơi thành cá khô ăn dần.

Từ đó chúng tôi dạn dĩ với cách bắt cá bằng đầu đạn cà nông, không phải lo thiếu đồ ăn tươi. Tôi tự tin bắt chước bác Thành, cũng đục ngòi nổ ra và tự làm “đồ nghề” bắt cá. Khi đi lại trong rừng, chúng tôi hay để ý tìm kiếm đầu đạn chưa nổ, dùng xe thồ chở về để dưới gốc cây cạnh chòi. Có ngày chúng tôi kiếm được vài trái đầu đạn đem về để la liệt quanh chòi. Mỗi lần bắt cá chúng tôi phải đi xa hơn vì chúng tôi đã tận diệt cá ở khúc suối gần nhà. Cả cá con cũng chết không còn 1 con. Lúc đó vì miếng ăn trước mắt nên chúng tôi không nghĩ ngợi gì sâu xa. Ngay cả mạng sống mình mà chúng tôi cũng không hề bận tâm vì mãi lo cho cái bao tử. Giờ nghĩ lại mà rùng mình sao hồi đó mình liều lĩnh quá.

Tiếng đồn về kiểu bắt cá bằng đầu đạn của chúng tôi lan xa, nhiều người làm rẫy gần đó tìm đến hỏi cách và xin chỉ dạy. Bác Thành không đồng ý vì bác sợ người ta làm không đúng thì hậu quả sẽ ghê gớm không thể tưởng tượng được. Nhiều người bực tức nói chúng tôi làm hiểm muốn ăn một mình. Khổ mà không nói được.

Một ngày kia giữa trưa, đang làm rẫy, chúng tôi nghe một tiếng nổ thật lớn ở khá xa đất rẫy nơi chúng tôi đang làm việc. Mọi người dừng tay cuốc, nhìn về hướng có tiếng nổ và thấy một cụm khói bốc lên cao. Bác Thành thở dài “khổ rồi đây, lại đục bom đạn”. Chiều hôm đó, mấy người làm rẫy gần bên cho hay một đám công an, du kích xã bị chết banh thây, cảnh tượng ghê rợn lắm, gia đình đến chỉ đi lượm từng mảnh thịt. Họ không dám nhìn lâu nên chạy về cho hay. Họ kể mấy tên công an, du kích ở không rảnh rỗi nên muốn bắt chước chúng tôi đi kiếm đầu đạn đem về đục ngòi nổ ngay tại chòi của chúng để bắt cá. Một sơ sẩy nhỏ, đầu đạn nổ tung. Vài đứa chết, vài đứa bị thương, tàn tật suốt đời.

Có người cho là đáng đời bọn thổ phỉ chuyên ăn cướp nông sản người dân. Đây là đám chính quyền xã gần đó, họ thành lập mấy cái chốt kiểm soát để tịch thu nông phẩm của người dân chúng tôi. Riêng tôi thấy thương hại bọn chúng hơn là cười vui khi thấy kẻ mình ghét bị chết. Thật ra chúng không biết việc chúng làm là hại dân, hại cả gia đình chúng một cách gián tiếp. 

Chúng lập chốt bao vây và chặn những đường dẫn ra quốc lộ và tỉnh thành. Tôi cũng đã từng là nạn nhân của chúng. Uất ức lắm chứ vì biết bao công sức, thời gian, và mồ hôi đổ trên mảnh đất cả một mùa bất chấp nắng mưa; mùa màng thu hoạch xong, chở ra chợ bán, bị bọn nó cướp lấy giữa ban ngày. Cả năm đó gia đình đói. Tức sôi máu lên được, nếu giết được chúng ngay lúc đó, chắc cũng dám làm. Sức mạnh nằm trên mũi súng, biết làm gì được trong khi mình tay không.

Khi gặt hái xong, chúng tôi đem ngũ cốc ra huyện Long Thành đổi lấy gạo muối, dầu mỡ, thuốc hút, và những thứ cần thiết cho đời sống. Chúng chận bắt và lấy tất cả không chừa một thứ gì. Thời đó chính quyền ngu dốt, bây giờ sau 46 năm, cũng chưa khôn hơn bao nhiêu, vẫn giữ nguyên não trạng “kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo”.  Họ không cho trao đổi hàng hóa hay lương thực, bất cứ dưới hình thức nào. Địa phương nào tự cung tự cấp cho địa phương đó. Chúng tôi phải luồn rừng băng núi, trốn tránh các chốt chặn để đem được ít lương thực về cho gia đình ở nhà. Đời sống dân chúng lầm than khổ sở. Tiếng than không thấu đến trời.

Thuở đó, khi đói thì đầu gối phải bò. Chúng tôi liều mạng sống chính mình, đục đầu đạn bắt cá để kiếm miếng ăn tự nuôi sống bản thân và gia đình. Hiện nay chính quyền trong nước lại liều mạng sống người dân, lập đường dây đưa người lao động bất hợp pháp ra nước ngoài để kiếm tiền bỏ túi riêng, gây nên thảm cảnh 39 người Việt bị chết ngạt và chết cóng trong thùng chở hàng xe tải mới hơn 1 năm nay, ngày 23 tháng 10 năm 2019 ở Essex, Anh Quốc. Khi người dân làm ăn đủ sống, không ai muốn liều thân mình, bỏ lại người thân, phải trốn tránh để đi làm thuê làm mướn bất hợp pháp ở xứ người. 

Một lần nữa, tôi khuyên bạn, mục đích tôi viết câu chuyện này để giúp bạn ý thức được sự nguy hiểm khi đụng đến bom đạn và đừng bao giờ bắt chước chúng tôi đục đầu đạn bắt cá. Đây chỉ là một kinh nghiệm sống trong lúc đói khổ mà thôi, lúc đó mạng sống con người còn thua con vật trong một trại súc vật khổng lồ tên gọi là Việt Nam.

Nguyễn Văn Tới

Tháng 6/2021.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.