Hôm nay,  

Bắt Cá Bằng Đầu Đạn Cà Nông

09/06/202115:58:00(Xem: 5637)

                                                      

blankblank

  Đầu đạn pháo 155 ly. Phần tam giác nhọn màu bạc là ngòi nổ (fuse). Hình internet.

Uncovering the Story of One of the Vietnam War's Bloodiest Battles

      Đơn vị pháo binh Việt Nam Cộng Hòa và súng cà nông 155 MM trước năm 1975. Hình Internet.

Câu cá là một thú vui tao nhã và nhàn hạ, nhưng chỉ bắt được ít cá chứ không nhiều. Đánh bắt bằng lưới và tàu thuyền thì được nhiều hơn, nhưng phải sắm sửa vật dụng, tàu bè, chắc chắn tốn kém nhiều tiền. Trong cuộc sống, khi đi làm phải chịu nhiều áp lực công việc, nhiều người chọn câu cá như một thú vui xả căng thẳng ở chỗ làm. Tôi chẳng bao giờ sắm cần câu để tự mình đi câu vì tôi không có số “sát cá”. Tôi đã thử mấy lần theo bạn bè đi câu mà chẳng bao giờ câu được con cá nào. Muốn ăn cá, tôi vào chợ “câu” là chắc ăn. 

Nhưng có 1 lần trong đời tôi chẳng tốn kém gì mà vẫn bắt được rất nhiều cá, cả 5, 6 bao tải cá, ăn không kịp phải phơi khô. Tôi xin kể cho bạn làm thế nào tôi bắt cá được nhiều, nhưng xin bạn đừng bắt chước theo tôi với kiểu nói quen thuộc trên TV bây giờ: “Do not try this at home”.

Những ngày còn trong nước, khoảng thời gian năm 1975, 1976, tại ngã ba cây số 67 trên đường đi ra Bà Rịa, Vũng Tàu, có một vùng kinh tế mới tự túc tên là Bầu Cạn. Thời đó cả nước đói thê thảm, cơm không có ăn phải thay thế bằng khoai sắn, đậu bắp. Thịt cá là một sự xa xỉ không ai dám mơ. Để sống còn, tôi phải đi sâu vào rừng để phát hoang, phá rừng làm rẫy và miếng đất của tôi nằm cạnh một giòng suối thật đẹp và khá rộng. 

Một hôm tôi đang cuốc đất giữa rừng, lưỡi cuốc của tôi chạm phải một vật gì cứng nằm dưới đất, tê rần cả tay, lưỡi cuốc cong quắn lại. Tôi nhìn kỹ thấy một miếng kim khí đã rỉ sét còn in nhát cuốc chém vào. Tôi đào bới xung quanh vật đó và khám phá ra đó là một đầu đạn cà nông chưa nổ. Tôi toát mồ hôi lạnh vì biết mình may mắn còn sống sót. Đã có nhiều người chết oan vì cuốc trúng đạn, bom bi trên đất của họ, nó phát nổ gây chết chóc và thương tích cho rất nhiều người.

Tôi cẩn thận đào rộng ra chung quanh cái đầu đạn và ước tính nó dài khoảng trên 60 cm, đường kính khoảng 15 cm. Tôi lấy mấy thân cây khô và đá tảng xếp xung quanh làm dấu, rồi tiếp tục cuốc cho xong mảnh đất để còn gieo hạt bắp chiều nay. Giờ nghỉ trưa, tôi đi bộ qua chòi kế bên kể cho bác Thành nghe câu chuyện ban sáng vì bác vốn là lính Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Gia đình bác mới lên phá rừng kế bên tôi nên hai bên vẫn qua lại với nhau thân thiết. Bác qua coi cái đầu đạn và cho biết đây là đầu đạn pháo 155 ly của lính mình bắn vào chỗ trú ẩn của Việt Cộng ngày xưa. Bác là Thượng Sĩ già thuộc binh chủng pháo binh chuyên ngành đạn dược nên bác biết rành rẽ nhiều loại đạn pháo khác nhau.

Mấy hôm sau, khi chúng tôi đã gieo hạt xong, mọi người đều rảnh rang, bác Thành qua chòi tôi chơi, ngồi uống trà và hút thuốc lào. Sau khi kéo một hơi dài lút nõ điếu, bác từ từ ngửa cổ nhả một làn khói dài và lên tiếng:

- Tôi biết một cách bắt cá bằng cái đầu đạn mà cháu đào được bữa hôm kia. Nếu cháu đồng ý, bác cháu mình hợp tác bắt cá, rất nhiều cá. Cháu chỉ cần kiếm cho bác 1 cái lưới nhỏ bề ngang bằng chiều rộng con suối là xong.

Bằng một giọng chậm rãi từ tốn, bác giải thích cho tôi biết thêm về trái đạn 155 ly. Đầu đạn này nặng  43.2 kg., được nhồi 6.6 kg thuốc nổ TNT bên trong. Khi được bắn đi, tầm xa có thể đến 20 km., khi va chạm vào mục tiêu, vòng quay đạt đến một tốc độ nhất định, ngòi nổ nẹc lửa nhờ một chất hóa học làm trái đạn nổ tung tạo ra sức ép và mảnh đạn có sức sát thương mạnh. Sở dĩ đầu đạn này không nổ có thể vì chưa đủ vòng tua hay vì 1 lý do gì đó nên rơi xuống đất mà không phát nổ. 

Mới đầu tôi hơi sợ khi chạm đến trái đạn, nhưng bác Thành tự tin nói chẳng có gì đáng sợ cả, nó đã không nổ thì không thể nào nổ đươc, ngoại trừ mình không biết lỡ tay lấy búa đập vào hạt nổ của nó tạo nên tia lửa thì nó mới phát nổ. Bác phụ khiêng một đầu, tôi một đầu, đặt trái đạn lên yên xe đạp và tôi thồ về chòi của mình. Bác và tôi khiêng đầu đạn đặt nó gần một gốc cây rợp bóng mát cách chòi tôi khoảng 100 mét. Bác thong thả lấy ra một cái búa nhỏ và một cái đục. Bác khuyên mọi người dang ra xa, đi qua bên kia gốc cây và vào chòi ngồi chơi đợi bác làm việc.

Tôi tò mò không chịu rời đi, nhưng vẫn sợ chết nên đứng sau gốc cây to, ló cái đầu ra ngay sau lưng bác quan sát coi bác làm gì. Bác vừa làm vừa giảng giải cho tôi một cách chậm rãi, bác nói phải rất cẩn thận với thứ chết người này, một nhát đục trật chỗ thì chết cả đám. Bác lấy búa gõ nhẹ chung quanh phía đầu đạn cho nó bong rỉ sét ra. Bác lấy một chút dầu ăn, nhỏ vài giọt vào kẽ hở chỗ phần răng vặn vào trái đạn giữa ngòi nổ (fuse) và đầu đạn, rồi bác vào chòi uống nước trà và tiếp tục hút thuốc lào, không tỏ vẻ gì vội vã. 

Hơn một tiếng sau, bác trở lại gốc cây và tiếp tục công việc. Bác bắt đầu đục cái ngòi nổ theo chiều ngược kim đồng hồ. Tôi nhìn theo mỗi động tác hai bàn tay bác gõ nhè nhẹ trên đầu núm trái đạn mà nín hơi không dám thở mạnh. Bác xoay tròn trái đạn, tiếp tục đục hạt nổ rất chăm chú và cẩn thận từng ly một. Tôi vẫn im lặng, không cả dám ho, sợ làm bác giật mình gõ trật búa, nhưng tai và mắt vẫn dõi theo từng cử động, từng âm thanh bác gõ lên cán đục. Hai bàn tay bác lúc nhanh lúc chậm, khéo léo  vừa làm vừa thỉnh thoảng ngừng lại một chút, nheo mắt lại quan sát rất kỹ từng vết khấc trên hạt nổ. Đầu hạt nổ từ từ được nới lỏng ra. Thời gian như cô đọng lại, ngừng trôi, chỉ còn tiếng lạch cạch vang lên giữa buổi trưa oi bức. 

Trán bác mồ hôi vẫn nhỏ giọt có lẽ do nóng bức và hồi hộp. Bác cứ đục từ từ, thật chậm, rất kiên nhẫn cho đến khi bác có thể dùng cây kìm kẹp và vặn phần ngòi nổ đó ra khỏi trái đạn. Lấy khăn quàng cổ ra lau mồ hôi trên trán, bác thở phào nhẹ nhõm và cho hay công đoạn khó nhất đã xong và không còn phải lo sợ gì nữa vì phần hạt nổ đã rời ra. Ở đầu trái đạn bây giờ là một cái lỗ trống và bên trong là thuốc nổ màu vàng nhạt đóng cứng hình tròn như cục xà bông.

Bác nhờ tôi đi chặt cho bác một khúc tre nhỏ dài cỡ nửa thước mà không có đốt tre ở giữa. Trong khi tôi đi kiếm tre, bác dùng một thanh sắt nhỏ dài độ 10 phân đút vào lỗ của trái đạn và cố gắng đục nhè nhẹ làm vụn thuốc nổ ở bên trong, càng vỡ ra nhỏ càng tốt. Bác lấy ra một ít thuốc nổ để bên ngoài. Khi tôi trở lại với cái ống tre, bác chặt vát một đầu ống để đút vào cái lỗ ở đầu trái đạn một cách vừa khít. Bác bốc bột thuốc nổ và rải dọc vào ống tre. Xong xuôi, bác hỏi sẵn sàng chưa. Tôi gật đầu. Bác bật diêm châm lửa vào vụn bột thuốc nổ. Một tia lửa nháng lên cháy xèo xèo dẫn vào trong trái đạn.

Tôi vội vàng ôm trái đạn, vác lên vai, chạy xuống bờ suối, đặt đầu đạn nằm trên bờ, và nhúng đầu ống tre xuống nước theo lời chỉ dẫn của bác Thành. Lửa thuốc đạn vẫn cháy, khi ống tre được nhúng xuống dưới mặt nước, vì không đủ dưỡng khí, lửa không cháy bùng lên được nên biến thành khói cháy ngầm, phát ra những tiếng lụp bụp và nước sủi bọt, rồi một làn khói nhẹ và mỏng tỏa lên trên mặt nước, có thể ngửi được mùi hôi của thuốc súng. 

Đợi một vài phút cho đầu đạn cứ tiếp tục cháy ngầm và nhả khói nhẹ đều đều, chúng tôi đi xuống cuối giòng nước cách đó vài trăm mét và giăng một cái lưới chặn ngang rồi leo lên bờ ngồi chờ.

Khoảng 15 phút sau, tôi thấy nhiều loại cá nổi lên mặt nước, có dấu hiệu say thuốc. Chúng bơi lờ đờ không còn nhanh nhẹn như thường ngày. Một số bơi ngửa phơi bụng trắng hếu. Chúng tôi chỉ việc lội xuống suối và bắt cá bằng tay hoặc bằng vợt đã chuẩn bị sẵn. Sau một tiếng thì cá nổi lên đầy mặt nước, vợt không xuể. 

Chúng tôi bắt đầy 5 bao tải cá có thể lên đến vài trăm ký lô. Trong lúc đói khát và thiếu thực phẩm trầm trọng thì đây là một bữa đại tiệc để ăn uống thỏa thích. Có điều là thịt cá hơi đắng và vương một chút mùi thuốc súng. Nhưng chẳng nhằm nhò gì, chúng tôi ngồi bên bờ suối, uống rượu đế, nhậu với cá tươi thoải mái mà chẳng lo lắng sợ bị ngộ độc gì. Hai cô con gái bác Thành, chị Lập và cô Loan, phải ngồi cả ngày hôm đó để mổ bụng cá moi ruột để chúng tôi phơi thành cá khô ăn dần.

Từ đó chúng tôi dạn dĩ với cách bắt cá bằng đầu đạn cà nông, không phải lo thiếu đồ ăn tươi. Tôi tự tin bắt chước bác Thành, cũng đục ngòi nổ ra và tự làm “đồ nghề” bắt cá. Khi đi lại trong rừng, chúng tôi hay để ý tìm kiếm đầu đạn chưa nổ, dùng xe thồ chở về để dưới gốc cây cạnh chòi. Có ngày chúng tôi kiếm được vài trái đầu đạn đem về để la liệt quanh chòi. Mỗi lần bắt cá chúng tôi phải đi xa hơn vì chúng tôi đã tận diệt cá ở khúc suối gần nhà. Cả cá con cũng chết không còn 1 con. Lúc đó vì miếng ăn trước mắt nên chúng tôi không nghĩ ngợi gì sâu xa. Ngay cả mạng sống mình mà chúng tôi cũng không hề bận tâm vì mãi lo cho cái bao tử. Giờ nghĩ lại mà rùng mình sao hồi đó mình liều lĩnh quá.

Tiếng đồn về kiểu bắt cá bằng đầu đạn của chúng tôi lan xa, nhiều người làm rẫy gần đó tìm đến hỏi cách và xin chỉ dạy. Bác Thành không đồng ý vì bác sợ người ta làm không đúng thì hậu quả sẽ ghê gớm không thể tưởng tượng được. Nhiều người bực tức nói chúng tôi làm hiểm muốn ăn một mình. Khổ mà không nói được.

Một ngày kia giữa trưa, đang làm rẫy, chúng tôi nghe một tiếng nổ thật lớn ở khá xa đất rẫy nơi chúng tôi đang làm việc. Mọi người dừng tay cuốc, nhìn về hướng có tiếng nổ và thấy một cụm khói bốc lên cao. Bác Thành thở dài “khổ rồi đây, lại đục bom đạn”. Chiều hôm đó, mấy người làm rẫy gần bên cho hay một đám công an, du kích xã bị chết banh thây, cảnh tượng ghê rợn lắm, gia đình đến chỉ đi lượm từng mảnh thịt. Họ không dám nhìn lâu nên chạy về cho hay. Họ kể mấy tên công an, du kích ở không rảnh rỗi nên muốn bắt chước chúng tôi đi kiếm đầu đạn đem về đục ngòi nổ ngay tại chòi của chúng để bắt cá. Một sơ sẩy nhỏ, đầu đạn nổ tung. Vài đứa chết, vài đứa bị thương, tàn tật suốt đời.

Có người cho là đáng đời bọn thổ phỉ chuyên ăn cướp nông sản người dân. Đây là đám chính quyền xã gần đó, họ thành lập mấy cái chốt kiểm soát để tịch thu nông phẩm của người dân chúng tôi. Riêng tôi thấy thương hại bọn chúng hơn là cười vui khi thấy kẻ mình ghét bị chết. Thật ra chúng không biết việc chúng làm là hại dân, hại cả gia đình chúng một cách gián tiếp. 

Chúng lập chốt bao vây và chặn những đường dẫn ra quốc lộ và tỉnh thành. Tôi cũng đã từng là nạn nhân của chúng. Uất ức lắm chứ vì biết bao công sức, thời gian, và mồ hôi đổ trên mảnh đất cả một mùa bất chấp nắng mưa; mùa màng thu hoạch xong, chở ra chợ bán, bị bọn nó cướp lấy giữa ban ngày. Cả năm đó gia đình đói. Tức sôi máu lên được, nếu giết được chúng ngay lúc đó, chắc cũng dám làm. Sức mạnh nằm trên mũi súng, biết làm gì được trong khi mình tay không.

Khi gặt hái xong, chúng tôi đem ngũ cốc ra huyện Long Thành đổi lấy gạo muối, dầu mỡ, thuốc hút, và những thứ cần thiết cho đời sống. Chúng chận bắt và lấy tất cả không chừa một thứ gì. Thời đó chính quyền ngu dốt, bây giờ sau 46 năm, cũng chưa khôn hơn bao nhiêu, vẫn giữ nguyên não trạng “kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo”.  Họ không cho trao đổi hàng hóa hay lương thực, bất cứ dưới hình thức nào. Địa phương nào tự cung tự cấp cho địa phương đó. Chúng tôi phải luồn rừng băng núi, trốn tránh các chốt chặn để đem được ít lương thực về cho gia đình ở nhà. Đời sống dân chúng lầm than khổ sở. Tiếng than không thấu đến trời.

Thuở đó, khi đói thì đầu gối phải bò. Chúng tôi liều mạng sống chính mình, đục đầu đạn bắt cá để kiếm miếng ăn tự nuôi sống bản thân và gia đình. Hiện nay chính quyền trong nước lại liều mạng sống người dân, lập đường dây đưa người lao động bất hợp pháp ra nước ngoài để kiếm tiền bỏ túi riêng, gây nên thảm cảnh 39 người Việt bị chết ngạt và chết cóng trong thùng chở hàng xe tải mới hơn 1 năm nay, ngày 23 tháng 10 năm 2019 ở Essex, Anh Quốc. Khi người dân làm ăn đủ sống, không ai muốn liều thân mình, bỏ lại người thân, phải trốn tránh để đi làm thuê làm mướn bất hợp pháp ở xứ người. 

Một lần nữa, tôi khuyên bạn, mục đích tôi viết câu chuyện này để giúp bạn ý thức được sự nguy hiểm khi đụng đến bom đạn và đừng bao giờ bắt chước chúng tôi đục đầu đạn bắt cá. Đây chỉ là một kinh nghiệm sống trong lúc đói khổ mà thôi, lúc đó mạng sống con người còn thua con vật trong một trại súc vật khổng lồ tên gọi là Việt Nam.

Nguyễn Văn Tới

Tháng 6/2021.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.