Hôm nay,  

Bắt Cá Bằng Đầu Đạn Cà Nông

09/06/202115:58:00(Xem: 5642)

                                                      

blankblank

  Đầu đạn pháo 155 ly. Phần tam giác nhọn màu bạc là ngòi nổ (fuse). Hình internet.

Uncovering the Story of One of the Vietnam War's Bloodiest Battles

      Đơn vị pháo binh Việt Nam Cộng Hòa và súng cà nông 155 MM trước năm 1975. Hình Internet.

Câu cá là một thú vui tao nhã và nhàn hạ, nhưng chỉ bắt được ít cá chứ không nhiều. Đánh bắt bằng lưới và tàu thuyền thì được nhiều hơn, nhưng phải sắm sửa vật dụng, tàu bè, chắc chắn tốn kém nhiều tiền. Trong cuộc sống, khi đi làm phải chịu nhiều áp lực công việc, nhiều người chọn câu cá như một thú vui xả căng thẳng ở chỗ làm. Tôi chẳng bao giờ sắm cần câu để tự mình đi câu vì tôi không có số “sát cá”. Tôi đã thử mấy lần theo bạn bè đi câu mà chẳng bao giờ câu được con cá nào. Muốn ăn cá, tôi vào chợ “câu” là chắc ăn. 

Nhưng có 1 lần trong đời tôi chẳng tốn kém gì mà vẫn bắt được rất nhiều cá, cả 5, 6 bao tải cá, ăn không kịp phải phơi khô. Tôi xin kể cho bạn làm thế nào tôi bắt cá được nhiều, nhưng xin bạn đừng bắt chước theo tôi với kiểu nói quen thuộc trên TV bây giờ: “Do not try this at home”.

Những ngày còn trong nước, khoảng thời gian năm 1975, 1976, tại ngã ba cây số 67 trên đường đi ra Bà Rịa, Vũng Tàu, có một vùng kinh tế mới tự túc tên là Bầu Cạn. Thời đó cả nước đói thê thảm, cơm không có ăn phải thay thế bằng khoai sắn, đậu bắp. Thịt cá là một sự xa xỉ không ai dám mơ. Để sống còn, tôi phải đi sâu vào rừng để phát hoang, phá rừng làm rẫy và miếng đất của tôi nằm cạnh một giòng suối thật đẹp và khá rộng. 

Một hôm tôi đang cuốc đất giữa rừng, lưỡi cuốc của tôi chạm phải một vật gì cứng nằm dưới đất, tê rần cả tay, lưỡi cuốc cong quắn lại. Tôi nhìn kỹ thấy một miếng kim khí đã rỉ sét còn in nhát cuốc chém vào. Tôi đào bới xung quanh vật đó và khám phá ra đó là một đầu đạn cà nông chưa nổ. Tôi toát mồ hôi lạnh vì biết mình may mắn còn sống sót. Đã có nhiều người chết oan vì cuốc trúng đạn, bom bi trên đất của họ, nó phát nổ gây chết chóc và thương tích cho rất nhiều người.

Tôi cẩn thận đào rộng ra chung quanh cái đầu đạn và ước tính nó dài khoảng trên 60 cm, đường kính khoảng 15 cm. Tôi lấy mấy thân cây khô và đá tảng xếp xung quanh làm dấu, rồi tiếp tục cuốc cho xong mảnh đất để còn gieo hạt bắp chiều nay. Giờ nghỉ trưa, tôi đi bộ qua chòi kế bên kể cho bác Thành nghe câu chuyện ban sáng vì bác vốn là lính Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Gia đình bác mới lên phá rừng kế bên tôi nên hai bên vẫn qua lại với nhau thân thiết. Bác qua coi cái đầu đạn và cho biết đây là đầu đạn pháo 155 ly của lính mình bắn vào chỗ trú ẩn của Việt Cộng ngày xưa. Bác là Thượng Sĩ già thuộc binh chủng pháo binh chuyên ngành đạn dược nên bác biết rành rẽ nhiều loại đạn pháo khác nhau.

Mấy hôm sau, khi chúng tôi đã gieo hạt xong, mọi người đều rảnh rang, bác Thành qua chòi tôi chơi, ngồi uống trà và hút thuốc lào. Sau khi kéo một hơi dài lút nõ điếu, bác từ từ ngửa cổ nhả một làn khói dài và lên tiếng:

- Tôi biết một cách bắt cá bằng cái đầu đạn mà cháu đào được bữa hôm kia. Nếu cháu đồng ý, bác cháu mình hợp tác bắt cá, rất nhiều cá. Cháu chỉ cần kiếm cho bác 1 cái lưới nhỏ bề ngang bằng chiều rộng con suối là xong.

Bằng một giọng chậm rãi từ tốn, bác giải thích cho tôi biết thêm về trái đạn 155 ly. Đầu đạn này nặng  43.2 kg., được nhồi 6.6 kg thuốc nổ TNT bên trong. Khi được bắn đi, tầm xa có thể đến 20 km., khi va chạm vào mục tiêu, vòng quay đạt đến một tốc độ nhất định, ngòi nổ nẹc lửa nhờ một chất hóa học làm trái đạn nổ tung tạo ra sức ép và mảnh đạn có sức sát thương mạnh. Sở dĩ đầu đạn này không nổ có thể vì chưa đủ vòng tua hay vì 1 lý do gì đó nên rơi xuống đất mà không phát nổ. 

Mới đầu tôi hơi sợ khi chạm đến trái đạn, nhưng bác Thành tự tin nói chẳng có gì đáng sợ cả, nó đã không nổ thì không thể nào nổ đươc, ngoại trừ mình không biết lỡ tay lấy búa đập vào hạt nổ của nó tạo nên tia lửa thì nó mới phát nổ. Bác phụ khiêng một đầu, tôi một đầu, đặt trái đạn lên yên xe đạp và tôi thồ về chòi của mình. Bác và tôi khiêng đầu đạn đặt nó gần một gốc cây rợp bóng mát cách chòi tôi khoảng 100 mét. Bác thong thả lấy ra một cái búa nhỏ và một cái đục. Bác khuyên mọi người dang ra xa, đi qua bên kia gốc cây và vào chòi ngồi chơi đợi bác làm việc.

Tôi tò mò không chịu rời đi, nhưng vẫn sợ chết nên đứng sau gốc cây to, ló cái đầu ra ngay sau lưng bác quan sát coi bác làm gì. Bác vừa làm vừa giảng giải cho tôi một cách chậm rãi, bác nói phải rất cẩn thận với thứ chết người này, một nhát đục trật chỗ thì chết cả đám. Bác lấy búa gõ nhẹ chung quanh phía đầu đạn cho nó bong rỉ sét ra. Bác lấy một chút dầu ăn, nhỏ vài giọt vào kẽ hở chỗ phần răng vặn vào trái đạn giữa ngòi nổ (fuse) và đầu đạn, rồi bác vào chòi uống nước trà và tiếp tục hút thuốc lào, không tỏ vẻ gì vội vã. 

Hơn một tiếng sau, bác trở lại gốc cây và tiếp tục công việc. Bác bắt đầu đục cái ngòi nổ theo chiều ngược kim đồng hồ. Tôi nhìn theo mỗi động tác hai bàn tay bác gõ nhè nhẹ trên đầu núm trái đạn mà nín hơi không dám thở mạnh. Bác xoay tròn trái đạn, tiếp tục đục hạt nổ rất chăm chú và cẩn thận từng ly một. Tôi vẫn im lặng, không cả dám ho, sợ làm bác giật mình gõ trật búa, nhưng tai và mắt vẫn dõi theo từng cử động, từng âm thanh bác gõ lên cán đục. Hai bàn tay bác lúc nhanh lúc chậm, khéo léo  vừa làm vừa thỉnh thoảng ngừng lại một chút, nheo mắt lại quan sát rất kỹ từng vết khấc trên hạt nổ. Đầu hạt nổ từ từ được nới lỏng ra. Thời gian như cô đọng lại, ngừng trôi, chỉ còn tiếng lạch cạch vang lên giữa buổi trưa oi bức. 

Trán bác mồ hôi vẫn nhỏ giọt có lẽ do nóng bức và hồi hộp. Bác cứ đục từ từ, thật chậm, rất kiên nhẫn cho đến khi bác có thể dùng cây kìm kẹp và vặn phần ngòi nổ đó ra khỏi trái đạn. Lấy khăn quàng cổ ra lau mồ hôi trên trán, bác thở phào nhẹ nhõm và cho hay công đoạn khó nhất đã xong và không còn phải lo sợ gì nữa vì phần hạt nổ đã rời ra. Ở đầu trái đạn bây giờ là một cái lỗ trống và bên trong là thuốc nổ màu vàng nhạt đóng cứng hình tròn như cục xà bông.

Bác nhờ tôi đi chặt cho bác một khúc tre nhỏ dài cỡ nửa thước mà không có đốt tre ở giữa. Trong khi tôi đi kiếm tre, bác dùng một thanh sắt nhỏ dài độ 10 phân đút vào lỗ của trái đạn và cố gắng đục nhè nhẹ làm vụn thuốc nổ ở bên trong, càng vỡ ra nhỏ càng tốt. Bác lấy ra một ít thuốc nổ để bên ngoài. Khi tôi trở lại với cái ống tre, bác chặt vát một đầu ống để đút vào cái lỗ ở đầu trái đạn một cách vừa khít. Bác bốc bột thuốc nổ và rải dọc vào ống tre. Xong xuôi, bác hỏi sẵn sàng chưa. Tôi gật đầu. Bác bật diêm châm lửa vào vụn bột thuốc nổ. Một tia lửa nháng lên cháy xèo xèo dẫn vào trong trái đạn.

Tôi vội vàng ôm trái đạn, vác lên vai, chạy xuống bờ suối, đặt đầu đạn nằm trên bờ, và nhúng đầu ống tre xuống nước theo lời chỉ dẫn của bác Thành. Lửa thuốc đạn vẫn cháy, khi ống tre được nhúng xuống dưới mặt nước, vì không đủ dưỡng khí, lửa không cháy bùng lên được nên biến thành khói cháy ngầm, phát ra những tiếng lụp bụp và nước sủi bọt, rồi một làn khói nhẹ và mỏng tỏa lên trên mặt nước, có thể ngửi được mùi hôi của thuốc súng. 

Đợi một vài phút cho đầu đạn cứ tiếp tục cháy ngầm và nhả khói nhẹ đều đều, chúng tôi đi xuống cuối giòng nước cách đó vài trăm mét và giăng một cái lưới chặn ngang rồi leo lên bờ ngồi chờ.

Khoảng 15 phút sau, tôi thấy nhiều loại cá nổi lên mặt nước, có dấu hiệu say thuốc. Chúng bơi lờ đờ không còn nhanh nhẹn như thường ngày. Một số bơi ngửa phơi bụng trắng hếu. Chúng tôi chỉ việc lội xuống suối và bắt cá bằng tay hoặc bằng vợt đã chuẩn bị sẵn. Sau một tiếng thì cá nổi lên đầy mặt nước, vợt không xuể. 

Chúng tôi bắt đầy 5 bao tải cá có thể lên đến vài trăm ký lô. Trong lúc đói khát và thiếu thực phẩm trầm trọng thì đây là một bữa đại tiệc để ăn uống thỏa thích. Có điều là thịt cá hơi đắng và vương một chút mùi thuốc súng. Nhưng chẳng nhằm nhò gì, chúng tôi ngồi bên bờ suối, uống rượu đế, nhậu với cá tươi thoải mái mà chẳng lo lắng sợ bị ngộ độc gì. Hai cô con gái bác Thành, chị Lập và cô Loan, phải ngồi cả ngày hôm đó để mổ bụng cá moi ruột để chúng tôi phơi thành cá khô ăn dần.

Từ đó chúng tôi dạn dĩ với cách bắt cá bằng đầu đạn cà nông, không phải lo thiếu đồ ăn tươi. Tôi tự tin bắt chước bác Thành, cũng đục ngòi nổ ra và tự làm “đồ nghề” bắt cá. Khi đi lại trong rừng, chúng tôi hay để ý tìm kiếm đầu đạn chưa nổ, dùng xe thồ chở về để dưới gốc cây cạnh chòi. Có ngày chúng tôi kiếm được vài trái đầu đạn đem về để la liệt quanh chòi. Mỗi lần bắt cá chúng tôi phải đi xa hơn vì chúng tôi đã tận diệt cá ở khúc suối gần nhà. Cả cá con cũng chết không còn 1 con. Lúc đó vì miếng ăn trước mắt nên chúng tôi không nghĩ ngợi gì sâu xa. Ngay cả mạng sống mình mà chúng tôi cũng không hề bận tâm vì mãi lo cho cái bao tử. Giờ nghĩ lại mà rùng mình sao hồi đó mình liều lĩnh quá.

Tiếng đồn về kiểu bắt cá bằng đầu đạn của chúng tôi lan xa, nhiều người làm rẫy gần đó tìm đến hỏi cách và xin chỉ dạy. Bác Thành không đồng ý vì bác sợ người ta làm không đúng thì hậu quả sẽ ghê gớm không thể tưởng tượng được. Nhiều người bực tức nói chúng tôi làm hiểm muốn ăn một mình. Khổ mà không nói được.

Một ngày kia giữa trưa, đang làm rẫy, chúng tôi nghe một tiếng nổ thật lớn ở khá xa đất rẫy nơi chúng tôi đang làm việc. Mọi người dừng tay cuốc, nhìn về hướng có tiếng nổ và thấy một cụm khói bốc lên cao. Bác Thành thở dài “khổ rồi đây, lại đục bom đạn”. Chiều hôm đó, mấy người làm rẫy gần bên cho hay một đám công an, du kích xã bị chết banh thây, cảnh tượng ghê rợn lắm, gia đình đến chỉ đi lượm từng mảnh thịt. Họ không dám nhìn lâu nên chạy về cho hay. Họ kể mấy tên công an, du kích ở không rảnh rỗi nên muốn bắt chước chúng tôi đi kiếm đầu đạn đem về đục ngòi nổ ngay tại chòi của chúng để bắt cá. Một sơ sẩy nhỏ, đầu đạn nổ tung. Vài đứa chết, vài đứa bị thương, tàn tật suốt đời.

Có người cho là đáng đời bọn thổ phỉ chuyên ăn cướp nông sản người dân. Đây là đám chính quyền xã gần đó, họ thành lập mấy cái chốt kiểm soát để tịch thu nông phẩm của người dân chúng tôi. Riêng tôi thấy thương hại bọn chúng hơn là cười vui khi thấy kẻ mình ghét bị chết. Thật ra chúng không biết việc chúng làm là hại dân, hại cả gia đình chúng một cách gián tiếp. 

Chúng lập chốt bao vây và chặn những đường dẫn ra quốc lộ và tỉnh thành. Tôi cũng đã từng là nạn nhân của chúng. Uất ức lắm chứ vì biết bao công sức, thời gian, và mồ hôi đổ trên mảnh đất cả một mùa bất chấp nắng mưa; mùa màng thu hoạch xong, chở ra chợ bán, bị bọn nó cướp lấy giữa ban ngày. Cả năm đó gia đình đói. Tức sôi máu lên được, nếu giết được chúng ngay lúc đó, chắc cũng dám làm. Sức mạnh nằm trên mũi súng, biết làm gì được trong khi mình tay không.

Khi gặt hái xong, chúng tôi đem ngũ cốc ra huyện Long Thành đổi lấy gạo muối, dầu mỡ, thuốc hút, và những thứ cần thiết cho đời sống. Chúng chận bắt và lấy tất cả không chừa một thứ gì. Thời đó chính quyền ngu dốt, bây giờ sau 46 năm, cũng chưa khôn hơn bao nhiêu, vẫn giữ nguyên não trạng “kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo”.  Họ không cho trao đổi hàng hóa hay lương thực, bất cứ dưới hình thức nào. Địa phương nào tự cung tự cấp cho địa phương đó. Chúng tôi phải luồn rừng băng núi, trốn tránh các chốt chặn để đem được ít lương thực về cho gia đình ở nhà. Đời sống dân chúng lầm than khổ sở. Tiếng than không thấu đến trời.

Thuở đó, khi đói thì đầu gối phải bò. Chúng tôi liều mạng sống chính mình, đục đầu đạn bắt cá để kiếm miếng ăn tự nuôi sống bản thân và gia đình. Hiện nay chính quyền trong nước lại liều mạng sống người dân, lập đường dây đưa người lao động bất hợp pháp ra nước ngoài để kiếm tiền bỏ túi riêng, gây nên thảm cảnh 39 người Việt bị chết ngạt và chết cóng trong thùng chở hàng xe tải mới hơn 1 năm nay, ngày 23 tháng 10 năm 2019 ở Essex, Anh Quốc. Khi người dân làm ăn đủ sống, không ai muốn liều thân mình, bỏ lại người thân, phải trốn tránh để đi làm thuê làm mướn bất hợp pháp ở xứ người. 

Một lần nữa, tôi khuyên bạn, mục đích tôi viết câu chuyện này để giúp bạn ý thức được sự nguy hiểm khi đụng đến bom đạn và đừng bao giờ bắt chước chúng tôi đục đầu đạn bắt cá. Đây chỉ là một kinh nghiệm sống trong lúc đói khổ mà thôi, lúc đó mạng sống con người còn thua con vật trong một trại súc vật khổng lồ tên gọi là Việt Nam.

Nguyễn Văn Tới

Tháng 6/2021.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.