Hôm nay,  

Bắt Cá Bằng Đầu Đạn Cà Nông

09/06/202115:58:00(Xem: 5642)

                                                      

blankblank

  Đầu đạn pháo 155 ly. Phần tam giác nhọn màu bạc là ngòi nổ (fuse). Hình internet.

Uncovering the Story of One of the Vietnam War's Bloodiest Battles

      Đơn vị pháo binh Việt Nam Cộng Hòa và súng cà nông 155 MM trước năm 1975. Hình Internet.

Câu cá là một thú vui tao nhã và nhàn hạ, nhưng chỉ bắt được ít cá chứ không nhiều. Đánh bắt bằng lưới và tàu thuyền thì được nhiều hơn, nhưng phải sắm sửa vật dụng, tàu bè, chắc chắn tốn kém nhiều tiền. Trong cuộc sống, khi đi làm phải chịu nhiều áp lực công việc, nhiều người chọn câu cá như một thú vui xả căng thẳng ở chỗ làm. Tôi chẳng bao giờ sắm cần câu để tự mình đi câu vì tôi không có số “sát cá”. Tôi đã thử mấy lần theo bạn bè đi câu mà chẳng bao giờ câu được con cá nào. Muốn ăn cá, tôi vào chợ “câu” là chắc ăn. 

Nhưng có 1 lần trong đời tôi chẳng tốn kém gì mà vẫn bắt được rất nhiều cá, cả 5, 6 bao tải cá, ăn không kịp phải phơi khô. Tôi xin kể cho bạn làm thế nào tôi bắt cá được nhiều, nhưng xin bạn đừng bắt chước theo tôi với kiểu nói quen thuộc trên TV bây giờ: “Do not try this at home”.

Những ngày còn trong nước, khoảng thời gian năm 1975, 1976, tại ngã ba cây số 67 trên đường đi ra Bà Rịa, Vũng Tàu, có một vùng kinh tế mới tự túc tên là Bầu Cạn. Thời đó cả nước đói thê thảm, cơm không có ăn phải thay thế bằng khoai sắn, đậu bắp. Thịt cá là một sự xa xỉ không ai dám mơ. Để sống còn, tôi phải đi sâu vào rừng để phát hoang, phá rừng làm rẫy và miếng đất của tôi nằm cạnh một giòng suối thật đẹp và khá rộng. 

Một hôm tôi đang cuốc đất giữa rừng, lưỡi cuốc của tôi chạm phải một vật gì cứng nằm dưới đất, tê rần cả tay, lưỡi cuốc cong quắn lại. Tôi nhìn kỹ thấy một miếng kim khí đã rỉ sét còn in nhát cuốc chém vào. Tôi đào bới xung quanh vật đó và khám phá ra đó là một đầu đạn cà nông chưa nổ. Tôi toát mồ hôi lạnh vì biết mình may mắn còn sống sót. Đã có nhiều người chết oan vì cuốc trúng đạn, bom bi trên đất của họ, nó phát nổ gây chết chóc và thương tích cho rất nhiều người.

Tôi cẩn thận đào rộng ra chung quanh cái đầu đạn và ước tính nó dài khoảng trên 60 cm, đường kính khoảng 15 cm. Tôi lấy mấy thân cây khô và đá tảng xếp xung quanh làm dấu, rồi tiếp tục cuốc cho xong mảnh đất để còn gieo hạt bắp chiều nay. Giờ nghỉ trưa, tôi đi bộ qua chòi kế bên kể cho bác Thành nghe câu chuyện ban sáng vì bác vốn là lính Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Gia đình bác mới lên phá rừng kế bên tôi nên hai bên vẫn qua lại với nhau thân thiết. Bác qua coi cái đầu đạn và cho biết đây là đầu đạn pháo 155 ly của lính mình bắn vào chỗ trú ẩn của Việt Cộng ngày xưa. Bác là Thượng Sĩ già thuộc binh chủng pháo binh chuyên ngành đạn dược nên bác biết rành rẽ nhiều loại đạn pháo khác nhau.

Mấy hôm sau, khi chúng tôi đã gieo hạt xong, mọi người đều rảnh rang, bác Thành qua chòi tôi chơi, ngồi uống trà và hút thuốc lào. Sau khi kéo một hơi dài lút nõ điếu, bác từ từ ngửa cổ nhả một làn khói dài và lên tiếng:

- Tôi biết một cách bắt cá bằng cái đầu đạn mà cháu đào được bữa hôm kia. Nếu cháu đồng ý, bác cháu mình hợp tác bắt cá, rất nhiều cá. Cháu chỉ cần kiếm cho bác 1 cái lưới nhỏ bề ngang bằng chiều rộng con suối là xong.

Bằng một giọng chậm rãi từ tốn, bác giải thích cho tôi biết thêm về trái đạn 155 ly. Đầu đạn này nặng  43.2 kg., được nhồi 6.6 kg thuốc nổ TNT bên trong. Khi được bắn đi, tầm xa có thể đến 20 km., khi va chạm vào mục tiêu, vòng quay đạt đến một tốc độ nhất định, ngòi nổ nẹc lửa nhờ một chất hóa học làm trái đạn nổ tung tạo ra sức ép và mảnh đạn có sức sát thương mạnh. Sở dĩ đầu đạn này không nổ có thể vì chưa đủ vòng tua hay vì 1 lý do gì đó nên rơi xuống đất mà không phát nổ. 

Mới đầu tôi hơi sợ khi chạm đến trái đạn, nhưng bác Thành tự tin nói chẳng có gì đáng sợ cả, nó đã không nổ thì không thể nào nổ đươc, ngoại trừ mình không biết lỡ tay lấy búa đập vào hạt nổ của nó tạo nên tia lửa thì nó mới phát nổ. Bác phụ khiêng một đầu, tôi một đầu, đặt trái đạn lên yên xe đạp và tôi thồ về chòi của mình. Bác và tôi khiêng đầu đạn đặt nó gần một gốc cây rợp bóng mát cách chòi tôi khoảng 100 mét. Bác thong thả lấy ra một cái búa nhỏ và một cái đục. Bác khuyên mọi người dang ra xa, đi qua bên kia gốc cây và vào chòi ngồi chơi đợi bác làm việc.

Tôi tò mò không chịu rời đi, nhưng vẫn sợ chết nên đứng sau gốc cây to, ló cái đầu ra ngay sau lưng bác quan sát coi bác làm gì. Bác vừa làm vừa giảng giải cho tôi một cách chậm rãi, bác nói phải rất cẩn thận với thứ chết người này, một nhát đục trật chỗ thì chết cả đám. Bác lấy búa gõ nhẹ chung quanh phía đầu đạn cho nó bong rỉ sét ra. Bác lấy một chút dầu ăn, nhỏ vài giọt vào kẽ hở chỗ phần răng vặn vào trái đạn giữa ngòi nổ (fuse) và đầu đạn, rồi bác vào chòi uống nước trà và tiếp tục hút thuốc lào, không tỏ vẻ gì vội vã. 

Hơn một tiếng sau, bác trở lại gốc cây và tiếp tục công việc. Bác bắt đầu đục cái ngòi nổ theo chiều ngược kim đồng hồ. Tôi nhìn theo mỗi động tác hai bàn tay bác gõ nhè nhẹ trên đầu núm trái đạn mà nín hơi không dám thở mạnh. Bác xoay tròn trái đạn, tiếp tục đục hạt nổ rất chăm chú và cẩn thận từng ly một. Tôi vẫn im lặng, không cả dám ho, sợ làm bác giật mình gõ trật búa, nhưng tai và mắt vẫn dõi theo từng cử động, từng âm thanh bác gõ lên cán đục. Hai bàn tay bác lúc nhanh lúc chậm, khéo léo  vừa làm vừa thỉnh thoảng ngừng lại một chút, nheo mắt lại quan sát rất kỹ từng vết khấc trên hạt nổ. Đầu hạt nổ từ từ được nới lỏng ra. Thời gian như cô đọng lại, ngừng trôi, chỉ còn tiếng lạch cạch vang lên giữa buổi trưa oi bức. 

Trán bác mồ hôi vẫn nhỏ giọt có lẽ do nóng bức và hồi hộp. Bác cứ đục từ từ, thật chậm, rất kiên nhẫn cho đến khi bác có thể dùng cây kìm kẹp và vặn phần ngòi nổ đó ra khỏi trái đạn. Lấy khăn quàng cổ ra lau mồ hôi trên trán, bác thở phào nhẹ nhõm và cho hay công đoạn khó nhất đã xong và không còn phải lo sợ gì nữa vì phần hạt nổ đã rời ra. Ở đầu trái đạn bây giờ là một cái lỗ trống và bên trong là thuốc nổ màu vàng nhạt đóng cứng hình tròn như cục xà bông.

Bác nhờ tôi đi chặt cho bác một khúc tre nhỏ dài cỡ nửa thước mà không có đốt tre ở giữa. Trong khi tôi đi kiếm tre, bác dùng một thanh sắt nhỏ dài độ 10 phân đút vào lỗ của trái đạn và cố gắng đục nhè nhẹ làm vụn thuốc nổ ở bên trong, càng vỡ ra nhỏ càng tốt. Bác lấy ra một ít thuốc nổ để bên ngoài. Khi tôi trở lại với cái ống tre, bác chặt vát một đầu ống để đút vào cái lỗ ở đầu trái đạn một cách vừa khít. Bác bốc bột thuốc nổ và rải dọc vào ống tre. Xong xuôi, bác hỏi sẵn sàng chưa. Tôi gật đầu. Bác bật diêm châm lửa vào vụn bột thuốc nổ. Một tia lửa nháng lên cháy xèo xèo dẫn vào trong trái đạn.

Tôi vội vàng ôm trái đạn, vác lên vai, chạy xuống bờ suối, đặt đầu đạn nằm trên bờ, và nhúng đầu ống tre xuống nước theo lời chỉ dẫn của bác Thành. Lửa thuốc đạn vẫn cháy, khi ống tre được nhúng xuống dưới mặt nước, vì không đủ dưỡng khí, lửa không cháy bùng lên được nên biến thành khói cháy ngầm, phát ra những tiếng lụp bụp và nước sủi bọt, rồi một làn khói nhẹ và mỏng tỏa lên trên mặt nước, có thể ngửi được mùi hôi của thuốc súng. 

Đợi một vài phút cho đầu đạn cứ tiếp tục cháy ngầm và nhả khói nhẹ đều đều, chúng tôi đi xuống cuối giòng nước cách đó vài trăm mét và giăng một cái lưới chặn ngang rồi leo lên bờ ngồi chờ.

Khoảng 15 phút sau, tôi thấy nhiều loại cá nổi lên mặt nước, có dấu hiệu say thuốc. Chúng bơi lờ đờ không còn nhanh nhẹn như thường ngày. Một số bơi ngửa phơi bụng trắng hếu. Chúng tôi chỉ việc lội xuống suối và bắt cá bằng tay hoặc bằng vợt đã chuẩn bị sẵn. Sau một tiếng thì cá nổi lên đầy mặt nước, vợt không xuể. 

Chúng tôi bắt đầy 5 bao tải cá có thể lên đến vài trăm ký lô. Trong lúc đói khát và thiếu thực phẩm trầm trọng thì đây là một bữa đại tiệc để ăn uống thỏa thích. Có điều là thịt cá hơi đắng và vương một chút mùi thuốc súng. Nhưng chẳng nhằm nhò gì, chúng tôi ngồi bên bờ suối, uống rượu đế, nhậu với cá tươi thoải mái mà chẳng lo lắng sợ bị ngộ độc gì. Hai cô con gái bác Thành, chị Lập và cô Loan, phải ngồi cả ngày hôm đó để mổ bụng cá moi ruột để chúng tôi phơi thành cá khô ăn dần.

Từ đó chúng tôi dạn dĩ với cách bắt cá bằng đầu đạn cà nông, không phải lo thiếu đồ ăn tươi. Tôi tự tin bắt chước bác Thành, cũng đục ngòi nổ ra và tự làm “đồ nghề” bắt cá. Khi đi lại trong rừng, chúng tôi hay để ý tìm kiếm đầu đạn chưa nổ, dùng xe thồ chở về để dưới gốc cây cạnh chòi. Có ngày chúng tôi kiếm được vài trái đầu đạn đem về để la liệt quanh chòi. Mỗi lần bắt cá chúng tôi phải đi xa hơn vì chúng tôi đã tận diệt cá ở khúc suối gần nhà. Cả cá con cũng chết không còn 1 con. Lúc đó vì miếng ăn trước mắt nên chúng tôi không nghĩ ngợi gì sâu xa. Ngay cả mạng sống mình mà chúng tôi cũng không hề bận tâm vì mãi lo cho cái bao tử. Giờ nghĩ lại mà rùng mình sao hồi đó mình liều lĩnh quá.

Tiếng đồn về kiểu bắt cá bằng đầu đạn của chúng tôi lan xa, nhiều người làm rẫy gần đó tìm đến hỏi cách và xin chỉ dạy. Bác Thành không đồng ý vì bác sợ người ta làm không đúng thì hậu quả sẽ ghê gớm không thể tưởng tượng được. Nhiều người bực tức nói chúng tôi làm hiểm muốn ăn một mình. Khổ mà không nói được.

Một ngày kia giữa trưa, đang làm rẫy, chúng tôi nghe một tiếng nổ thật lớn ở khá xa đất rẫy nơi chúng tôi đang làm việc. Mọi người dừng tay cuốc, nhìn về hướng có tiếng nổ và thấy một cụm khói bốc lên cao. Bác Thành thở dài “khổ rồi đây, lại đục bom đạn”. Chiều hôm đó, mấy người làm rẫy gần bên cho hay một đám công an, du kích xã bị chết banh thây, cảnh tượng ghê rợn lắm, gia đình đến chỉ đi lượm từng mảnh thịt. Họ không dám nhìn lâu nên chạy về cho hay. Họ kể mấy tên công an, du kích ở không rảnh rỗi nên muốn bắt chước chúng tôi đi kiếm đầu đạn đem về đục ngòi nổ ngay tại chòi của chúng để bắt cá. Một sơ sẩy nhỏ, đầu đạn nổ tung. Vài đứa chết, vài đứa bị thương, tàn tật suốt đời.

Có người cho là đáng đời bọn thổ phỉ chuyên ăn cướp nông sản người dân. Đây là đám chính quyền xã gần đó, họ thành lập mấy cái chốt kiểm soát để tịch thu nông phẩm của người dân chúng tôi. Riêng tôi thấy thương hại bọn chúng hơn là cười vui khi thấy kẻ mình ghét bị chết. Thật ra chúng không biết việc chúng làm là hại dân, hại cả gia đình chúng một cách gián tiếp. 

Chúng lập chốt bao vây và chặn những đường dẫn ra quốc lộ và tỉnh thành. Tôi cũng đã từng là nạn nhân của chúng. Uất ức lắm chứ vì biết bao công sức, thời gian, và mồ hôi đổ trên mảnh đất cả một mùa bất chấp nắng mưa; mùa màng thu hoạch xong, chở ra chợ bán, bị bọn nó cướp lấy giữa ban ngày. Cả năm đó gia đình đói. Tức sôi máu lên được, nếu giết được chúng ngay lúc đó, chắc cũng dám làm. Sức mạnh nằm trên mũi súng, biết làm gì được trong khi mình tay không.

Khi gặt hái xong, chúng tôi đem ngũ cốc ra huyện Long Thành đổi lấy gạo muối, dầu mỡ, thuốc hút, và những thứ cần thiết cho đời sống. Chúng chận bắt và lấy tất cả không chừa một thứ gì. Thời đó chính quyền ngu dốt, bây giờ sau 46 năm, cũng chưa khôn hơn bao nhiêu, vẫn giữ nguyên não trạng “kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo”.  Họ không cho trao đổi hàng hóa hay lương thực, bất cứ dưới hình thức nào. Địa phương nào tự cung tự cấp cho địa phương đó. Chúng tôi phải luồn rừng băng núi, trốn tránh các chốt chặn để đem được ít lương thực về cho gia đình ở nhà. Đời sống dân chúng lầm than khổ sở. Tiếng than không thấu đến trời.

Thuở đó, khi đói thì đầu gối phải bò. Chúng tôi liều mạng sống chính mình, đục đầu đạn bắt cá để kiếm miếng ăn tự nuôi sống bản thân và gia đình. Hiện nay chính quyền trong nước lại liều mạng sống người dân, lập đường dây đưa người lao động bất hợp pháp ra nước ngoài để kiếm tiền bỏ túi riêng, gây nên thảm cảnh 39 người Việt bị chết ngạt và chết cóng trong thùng chở hàng xe tải mới hơn 1 năm nay, ngày 23 tháng 10 năm 2019 ở Essex, Anh Quốc. Khi người dân làm ăn đủ sống, không ai muốn liều thân mình, bỏ lại người thân, phải trốn tránh để đi làm thuê làm mướn bất hợp pháp ở xứ người. 

Một lần nữa, tôi khuyên bạn, mục đích tôi viết câu chuyện này để giúp bạn ý thức được sự nguy hiểm khi đụng đến bom đạn và đừng bao giờ bắt chước chúng tôi đục đầu đạn bắt cá. Đây chỉ là một kinh nghiệm sống trong lúc đói khổ mà thôi, lúc đó mạng sống con người còn thua con vật trong một trại súc vật khổng lồ tên gọi là Việt Nam.

Nguyễn Văn Tới

Tháng 6/2021.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.