Hôm nay,  

Mùa Trăng Khổ

18/09/202117:49:00(Xem: 3789)

1

Em mở mắt ra. Trong đêm tối, nghe có tiếng khua nhè nhẹ bên ngoài. Nhận ra là mẹ em ở đó, em khe khẽ đi ra. Em hỏi:

“Đã khuya quá rồi, sao Mẹ không ngủ?”

Mẹ em nói:

“Mẹ chờ tin Bà Ngoại.”

“Bà Ngoại sao hở Mẹ?”

“Bà ngoại nguy lắm rồi con ạ! Bệnh viện mới báo về.”

“Rồi làm sao hở Mẹ?”

Mẹ lắc đầu:

“Không biết làm sao. Từ lúc Bà Ngoại “cách ly” rồi vào bệnh viện, mình không được gặp.”

Em không dám hỏi nữa, yên lặng ngồi bên Mẹ, cùng chờ đợi với Mẹ. Đã hơn bốn tháng ở trong nhà, ý nghĩa hai chữ “cách ly” hầu như ai cũng thấm thía. Rồi từ khi Bà Ngoại được đưa vào bệnh viện, mấy mẹ con chỉ “gặp” Bà qua điện thoại. Có khi Bà Ngoại nói chuyện được, Bà gắng gượng vui vẻ. Bà còn dặn dò việc nhà phải làm cho đàng hoàng. Chẳng là Bà đã quán xuyến hầu hết công việc trong nhà để Ba Mẹ yên tâm đi làm. Tám mươi tuổi, trông Bà còn nhanh nhẹn, sáng suốt lắm. Vậy mà dịch bệnh đã tấn công Bà trước nhất. Ba đi làm ở tỉnh xa, giãn cách, Ba không về nhà được. Mẹ nói thôi để Mẹ lo cho gia đình, Ba hãy khoan về.

Hai mẹ con ngồi một lát, Mẹ bảo em vào ngủ. Ngày mai không đi học, cũng như những ngày khác, em không được đến trường. Em lấy đó làm cái cớ để ngồi nán lại với Mẹ. Một lát, em cảm thấy như mình ngủ gật ngủ gà. Nhìn qua, thấy Mẹ em vẫn trao tráo mắt.

Rồi thì tiếng chuông điện thoại reo lên, hai mẹ con giật mình. Mẹ nghe điện thoại, và rú lên. Bệnh viện báo Bà Ngoại của em đã không qua khỏi. Hai mẹ con ôm nhau khóc. Cái cột trụ để  tựa nương của nhà em đã mất!

Bà Ngoại đã tám mươi tuổi. Như em đọc trong sách báo, đến tuổi này thì được kể là “thọ” rồi. Nhưng Bà Ngoại mất ở thời này, không “thọ” chút nào, không bình thường chút nào. Không bình thường bởi vì không ai được ở bên Bà, trừ bác sĩ và y tá. Không bình thường bởi vì Mẹ em và em chỉ làm mỗi một việc là chờ đợi. Không có đám tang, không có người đến phúng viếng như em thường thấy các đám tang trong khu xóm nhà em trước đây, hoặc xem trong sách báo, phim ảnh, truyền hình.

Rồi đến một hôm, Mẹ em khóc ngất nhận một hũ sành từ một người không quen. Mẹ nói hũ sành đựng tro cốt. Và đó là những gì còn lại của Bà Ngoại em.


2

Mẹ dạy em xếp một chiếc lồng đèn bằng giấy bông, loại dùng để gói quà, đặt lên bàn thờ Bà Ngoại. Chiếc lồng đèn bé bằng cái tô, nhưng vẫn có thể thắp một cây nến nhỏ trong ấy. Bà Ngoại trong bức ảnh, nét mặt vui tươi. Bà chụp hình này lúc chưa biết đến tên cái bệnh dịch quái ác mà cả thế giới đang đương đầu. Lúc nào Bà cũng như đang cười. Em nhớ những câu chuyện Bà hay kể, kể hoài không chán. Mà em nghe cũng không chán, nghe đến thuộc lòng. Yêu nhất là câu chuyện Chú Cuội Cây Đa. Bà bảo hãy gọi Chú Cuội, đừng gọi Thằng Cuội, nghe không hay. Trẻ con Việt Nam nào ít nhiều cũng biết câu chuyện này. Em thì mê nhất là lúc Chú Cuội rình thấy cọp mẹ nhai nắm lá đắp vào vết thương cho cọp con, thế là cọp con lành ngay. Chẳng là em muốn lớn lên làm bác sĩ chữa bệnh, hay dược sĩ chế thuốc, nên em chú ý nhiều đến điểm này. Chuyện đời xưa hay quá, hay ở chỗ người ta không sợ bệnh. Hễ bệnh thì có cây đa của Chú Cuội như trong chuyện này. Còn thì có nào là thuốc tiên, nào là ông tiên, bà tiên chữa bệnh cho. Ôi, sao mà em mơ có một thế giới như vậy! Hễ ai sống hiền thì sẽ gặp lành, như một công thức không thay đổi. Còn trong cuộc đời thực, em thấy ai cũng có thể gặp chuyện chẳng lành. Em ngẫm nghĩ hoài, rồi thấy nếu em cứ như vậy, em sẽ lý sự như một bà cụ non. Nhưng không nghĩ không được. Em thương Bà Ngoại của em quá! Bà hiền lành, nhân hậu lắm mà! Sao Bà lại bị biến mất lạ kỳ như vậy? Em thương Mẹ em thờ thẫn suốt ngày, mà em đoán chắc trong lòng Mẹ thì đau điếng.

Em biết Trung Thu sắp đến, qua xem lịch hàng ngày. Có một vài chương trình trên ti-vi nhắc đến Tết Trung Thu, nhưng em thấy nhạt nhẽo, gắng gượng quá! “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi.” (1) Ồ không, tụi con nít chúng em không được ra đường! Người lớn như Mẹ thì quá lắm đi mua thức ăn, đi mua thuốc. Em xem tin, thấy người ta cũng làm bánh để bán ăn Tết Trung Thu. Nhưng Mẹ em đã làm một chiếc bánh nướng theo cách của Mẹ, để cúng Bà Ngoại. Em thì muốn thắp đèn cầy thật nhiều, đặt lên bậu cửa sổ để cho Bà Ngoại cũng thấy, cùng vui với hai mẹ con. 

Khu xóm nhà em vắng vẻ từ mấy tháng nay. Bình thường có khi Bà Ngoại than sao tụi nhỏ nô đùa la lớn làm Bà nhức óc. Bây giờ một tiếng cười cũng không có. Thỉnh thoảng có tiếng xe gắn máy, là do người ta phải đi ra đường khi thật cần thiết, cũng nghe vui vui một chút. Sài Gòn của em đã vắng đi rất nhiều. Mẹ nói người ta ra đi, về quê, vì Sài Gòn dịch bệnh lan tràn. Sài Gòn, nơi đón người đến và tiễn người đi. Không có việc để làm, không có tiền trả tiền nhà trọ, thậm chí bị đói, người ta phải đi thôi! Nói rằng họ bỏ đi cũng rất tội. Đâu ai muốn bỏ Sài Gòn mà đi! Em thấy thương họ. Em thấy thương Sài Gòn của em lắm!


3

“Bà Ngoại là một kho chuyện cổ tích, con ạ!”

“Dạ, con nhớ lắm! Chuyện Bà Ngoại kể… không thể quên được.”

“Ừ, Bà Ngoại sống trong thế giới chuyện cổ tích. Bà Ngoại rất đơn thuần. Tới thế hệ của Mẹ, được học hành nhiều hơn, nhìn thế giới rộng mở hơn, ước mơ cũng khác nhiều.”

Mẹ em đem hình của Bà Ngoại ra xem, ngồi lặng yên, nước mắt rưng rưng. Em muốn Mẹ nguôi bớt, nên kiếm chuyện khác để bàn với Mẹ.

“Mẹ mơ ước gì hở Mẹ?”

“Mẹ từng mơ mình được lên mặt trăng, nhưng không phải vì muốn gặp Chú Cuội, Chị Hằng. Mà vì mẹ thấy các vị phi hành gia giỏi quá. Họ thay mặt cho cả thế giới, đến được vùng đất thần tiên trong cổ tích. Họ biến ước mơ thành sự thật. Mẹ thích khoa học, con à!”

Em cảm động quá! Mẹ nói như đang viết văn hay đang giảng bài. Mẹ của em là một nhà giáo ấy mà!

Mẹ nói tiếp:

“Khoa học có thể giải thích những gì bí hiểm nhất. Ngay cả với bệnh tật, khoa học cũng làm sáng tỏ nguồn gốc, nguyên nhân và cách giải quyết. Với cái con virus này cũng vậy…”

Em tưởng mình có thể “dẫn” Mẹ ra xa một chút, nhưng Mẹ đã đưa em về thực tại.

“Vậy tại sao con người giống như đang chịu thua con virus này hở Mẹ?”

Mẹ lắc đầu:

“Con người không chịu thua. Con người hiểu rất nhiều về nó, đang chống lại nó. Nhưng nó đang biến chủng. Con người cứ bị nó dẫn trước trong cuộc chạy này.”

“Nếu nước mình có vaccine sớm thì nhiều người đâu có chết ha Mẹ!”

“Phải, và Bà Ngoại đâu có chết. Bà Ngoại còn sống với mình nhiều năm nữa, đến cả trăm tuổi…”

“Vậy còn có những nước có vaccine sớm nhưng vẫn chưa diệt nổi dịch bệnh thì sao hở Mẹ, như nước Mỹ?”

Mẹ thở dài:

“Có những nơi dư thừa vaccine nhưng có những người quay lưng, không muốn chích, vì hoài nghi, vì không tin vào khoa học, con ạ!”

Em nghe khó chịu trong mắt. Hình như có một nỗi tức giận đang ùa đến. 

Tới lượt Mẹ dẫn em đi qua chuyện khác. Mẹ cùng em mở máy computer xem lại những bước chân của các vị phi hành gia đặt lên mặt trăng lần đầu tiên, năm 1969. Chuyến bay của phi thuyền Apollo 11 lừng danh. Em hào hứng hỏi Mẹ từng chi tiết. Mẹ quên buồn, kể em nghe về những phút giây cảm động, mọi người ngồi dán mắt lên màn hình ti-vi, say sưa như thể mình đang được sống trên quê hương của Chú Cuội, Chị Hằng.


4

“Trên một ngàn năm trăm học sinh phổ thông rơi vào cảnh mồ côi do cha mẹ mất vì dịch COVID-19, chỉ riêng ở Sài Gòn.” 

Đọc bản tin, em lạnh cả người. Em nghĩ con số này sẽ còn tăng lên nữa, khi mà dịch bệnh chưa bị đánh bại. Tự nhiên em muốn cầu xin các đấng thiêng liêng cứu vớt con người. Tuổi nhỏ của em không mộng mơ như Mẹ ngày trước. Em không mơ lên mặt trăng. Em chỉ mơ, ngay bây giờ đây, có được một bầu không khí trong lành để thở, có được lớp học với đông đủ thầy cô, bạn bè, dạy và học với nhau trong không gian thực, không qua ipad, cell phone; hay phải giam mình lặng lẽ nhớ lớp, nhớ trường vì không có phương tiện. Em chỉ mơ khu xóm nhà em rộn vui tiếng trẻ con nô đùa, tiếng xe chạy qua lại rộn ràng. Em chỉ mơ thành phố bừng lên sau giấc ngủ dài, người người hớn hở mua bán xôn xao.

Em nhìn lên trăng qua khung cửa sổ. Đêm nay trăng đã tròn. Trăng chiếu vào nơi Bà Ngoại ngồi. Em thấy nhớ Bà Ngoại quá! Chú Cuội, Chị Hằng đi vắng rồi! Chỉ còn vầng trăng trải một màu thương nhớ.

Bỗng em nghe tiếng Mẹ thì thầm. Em lắng nghe. Mẹ ở trong phòng. Mẹ đang nói chuyện điện thoại với Ba. Tiếng của Mẹ nghe khác lạ.

“Có gì thì anh về nhé!”

Không nghe Ba nói gì bên kia đường dây. Em nghe Mẹ nói tiếp:

“Chỉ là xét nghiệm dương tính thôi. Em sẽ cố gắng tự cách ly. Con mình cũng hiểu biết lắm, anh đừng lo nhiều. Em đã có một mũi vaccine trong người. Mình sẽ vượt qua.”


Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Mùa Trung Thu 2021

(1): Rước Đèn Tháng Tám, tác giả: Nhạc sĩ Vân Thanh (Đức Quỳnh)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.