Hôm nay,  

Mùa Trăng Khổ

18/09/202117:49:00(Xem: 3786)

1

Em mở mắt ra. Trong đêm tối, nghe có tiếng khua nhè nhẹ bên ngoài. Nhận ra là mẹ em ở đó, em khe khẽ đi ra. Em hỏi:

“Đã khuya quá rồi, sao Mẹ không ngủ?”

Mẹ em nói:

“Mẹ chờ tin Bà Ngoại.”

“Bà Ngoại sao hở Mẹ?”

“Bà ngoại nguy lắm rồi con ạ! Bệnh viện mới báo về.”

“Rồi làm sao hở Mẹ?”

Mẹ lắc đầu:

“Không biết làm sao. Từ lúc Bà Ngoại “cách ly” rồi vào bệnh viện, mình không được gặp.”

Em không dám hỏi nữa, yên lặng ngồi bên Mẹ, cùng chờ đợi với Mẹ. Đã hơn bốn tháng ở trong nhà, ý nghĩa hai chữ “cách ly” hầu như ai cũng thấm thía. Rồi từ khi Bà Ngoại được đưa vào bệnh viện, mấy mẹ con chỉ “gặp” Bà qua điện thoại. Có khi Bà Ngoại nói chuyện được, Bà gắng gượng vui vẻ. Bà còn dặn dò việc nhà phải làm cho đàng hoàng. Chẳng là Bà đã quán xuyến hầu hết công việc trong nhà để Ba Mẹ yên tâm đi làm. Tám mươi tuổi, trông Bà còn nhanh nhẹn, sáng suốt lắm. Vậy mà dịch bệnh đã tấn công Bà trước nhất. Ba đi làm ở tỉnh xa, giãn cách, Ba không về nhà được. Mẹ nói thôi để Mẹ lo cho gia đình, Ba hãy khoan về.

Hai mẹ con ngồi một lát, Mẹ bảo em vào ngủ. Ngày mai không đi học, cũng như những ngày khác, em không được đến trường. Em lấy đó làm cái cớ để ngồi nán lại với Mẹ. Một lát, em cảm thấy như mình ngủ gật ngủ gà. Nhìn qua, thấy Mẹ em vẫn trao tráo mắt.

Rồi thì tiếng chuông điện thoại reo lên, hai mẹ con giật mình. Mẹ nghe điện thoại, và rú lên. Bệnh viện báo Bà Ngoại của em đã không qua khỏi. Hai mẹ con ôm nhau khóc. Cái cột trụ để  tựa nương của nhà em đã mất!

Bà Ngoại đã tám mươi tuổi. Như em đọc trong sách báo, đến tuổi này thì được kể là “thọ” rồi. Nhưng Bà Ngoại mất ở thời này, không “thọ” chút nào, không bình thường chút nào. Không bình thường bởi vì không ai được ở bên Bà, trừ bác sĩ và y tá. Không bình thường bởi vì Mẹ em và em chỉ làm mỗi một việc là chờ đợi. Không có đám tang, không có người đến phúng viếng như em thường thấy các đám tang trong khu xóm nhà em trước đây, hoặc xem trong sách báo, phim ảnh, truyền hình.

Rồi đến một hôm, Mẹ em khóc ngất nhận một hũ sành từ một người không quen. Mẹ nói hũ sành đựng tro cốt. Và đó là những gì còn lại của Bà Ngoại em.


2

Mẹ dạy em xếp một chiếc lồng đèn bằng giấy bông, loại dùng để gói quà, đặt lên bàn thờ Bà Ngoại. Chiếc lồng đèn bé bằng cái tô, nhưng vẫn có thể thắp một cây nến nhỏ trong ấy. Bà Ngoại trong bức ảnh, nét mặt vui tươi. Bà chụp hình này lúc chưa biết đến tên cái bệnh dịch quái ác mà cả thế giới đang đương đầu. Lúc nào Bà cũng như đang cười. Em nhớ những câu chuyện Bà hay kể, kể hoài không chán. Mà em nghe cũng không chán, nghe đến thuộc lòng. Yêu nhất là câu chuyện Chú Cuội Cây Đa. Bà bảo hãy gọi Chú Cuội, đừng gọi Thằng Cuội, nghe không hay. Trẻ con Việt Nam nào ít nhiều cũng biết câu chuyện này. Em thì mê nhất là lúc Chú Cuội rình thấy cọp mẹ nhai nắm lá đắp vào vết thương cho cọp con, thế là cọp con lành ngay. Chẳng là em muốn lớn lên làm bác sĩ chữa bệnh, hay dược sĩ chế thuốc, nên em chú ý nhiều đến điểm này. Chuyện đời xưa hay quá, hay ở chỗ người ta không sợ bệnh. Hễ bệnh thì có cây đa của Chú Cuội như trong chuyện này. Còn thì có nào là thuốc tiên, nào là ông tiên, bà tiên chữa bệnh cho. Ôi, sao mà em mơ có một thế giới như vậy! Hễ ai sống hiền thì sẽ gặp lành, như một công thức không thay đổi. Còn trong cuộc đời thực, em thấy ai cũng có thể gặp chuyện chẳng lành. Em ngẫm nghĩ hoài, rồi thấy nếu em cứ như vậy, em sẽ lý sự như một bà cụ non. Nhưng không nghĩ không được. Em thương Bà Ngoại của em quá! Bà hiền lành, nhân hậu lắm mà! Sao Bà lại bị biến mất lạ kỳ như vậy? Em thương Mẹ em thờ thẫn suốt ngày, mà em đoán chắc trong lòng Mẹ thì đau điếng.

Em biết Trung Thu sắp đến, qua xem lịch hàng ngày. Có một vài chương trình trên ti-vi nhắc đến Tết Trung Thu, nhưng em thấy nhạt nhẽo, gắng gượng quá! “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi.” (1) Ồ không, tụi con nít chúng em không được ra đường! Người lớn như Mẹ thì quá lắm đi mua thức ăn, đi mua thuốc. Em xem tin, thấy người ta cũng làm bánh để bán ăn Tết Trung Thu. Nhưng Mẹ em đã làm một chiếc bánh nướng theo cách của Mẹ, để cúng Bà Ngoại. Em thì muốn thắp đèn cầy thật nhiều, đặt lên bậu cửa sổ để cho Bà Ngoại cũng thấy, cùng vui với hai mẹ con. 

Khu xóm nhà em vắng vẻ từ mấy tháng nay. Bình thường có khi Bà Ngoại than sao tụi nhỏ nô đùa la lớn làm Bà nhức óc. Bây giờ một tiếng cười cũng không có. Thỉnh thoảng có tiếng xe gắn máy, là do người ta phải đi ra đường khi thật cần thiết, cũng nghe vui vui một chút. Sài Gòn của em đã vắng đi rất nhiều. Mẹ nói người ta ra đi, về quê, vì Sài Gòn dịch bệnh lan tràn. Sài Gòn, nơi đón người đến và tiễn người đi. Không có việc để làm, không có tiền trả tiền nhà trọ, thậm chí bị đói, người ta phải đi thôi! Nói rằng họ bỏ đi cũng rất tội. Đâu ai muốn bỏ Sài Gòn mà đi! Em thấy thương họ. Em thấy thương Sài Gòn của em lắm!


3

“Bà Ngoại là một kho chuyện cổ tích, con ạ!”

“Dạ, con nhớ lắm! Chuyện Bà Ngoại kể… không thể quên được.”

“Ừ, Bà Ngoại sống trong thế giới chuyện cổ tích. Bà Ngoại rất đơn thuần. Tới thế hệ của Mẹ, được học hành nhiều hơn, nhìn thế giới rộng mở hơn, ước mơ cũng khác nhiều.”

Mẹ em đem hình của Bà Ngoại ra xem, ngồi lặng yên, nước mắt rưng rưng. Em muốn Mẹ nguôi bớt, nên kiếm chuyện khác để bàn với Mẹ.

“Mẹ mơ ước gì hở Mẹ?”

“Mẹ từng mơ mình được lên mặt trăng, nhưng không phải vì muốn gặp Chú Cuội, Chị Hằng. Mà vì mẹ thấy các vị phi hành gia giỏi quá. Họ thay mặt cho cả thế giới, đến được vùng đất thần tiên trong cổ tích. Họ biến ước mơ thành sự thật. Mẹ thích khoa học, con à!”

Em cảm động quá! Mẹ nói như đang viết văn hay đang giảng bài. Mẹ của em là một nhà giáo ấy mà!

Mẹ nói tiếp:

“Khoa học có thể giải thích những gì bí hiểm nhất. Ngay cả với bệnh tật, khoa học cũng làm sáng tỏ nguồn gốc, nguyên nhân và cách giải quyết. Với cái con virus này cũng vậy…”

Em tưởng mình có thể “dẫn” Mẹ ra xa một chút, nhưng Mẹ đã đưa em về thực tại.

“Vậy tại sao con người giống như đang chịu thua con virus này hở Mẹ?”

Mẹ lắc đầu:

“Con người không chịu thua. Con người hiểu rất nhiều về nó, đang chống lại nó. Nhưng nó đang biến chủng. Con người cứ bị nó dẫn trước trong cuộc chạy này.”

“Nếu nước mình có vaccine sớm thì nhiều người đâu có chết ha Mẹ!”

“Phải, và Bà Ngoại đâu có chết. Bà Ngoại còn sống với mình nhiều năm nữa, đến cả trăm tuổi…”

“Vậy còn có những nước có vaccine sớm nhưng vẫn chưa diệt nổi dịch bệnh thì sao hở Mẹ, như nước Mỹ?”

Mẹ thở dài:

“Có những nơi dư thừa vaccine nhưng có những người quay lưng, không muốn chích, vì hoài nghi, vì không tin vào khoa học, con ạ!”

Em nghe khó chịu trong mắt. Hình như có một nỗi tức giận đang ùa đến. 

Tới lượt Mẹ dẫn em đi qua chuyện khác. Mẹ cùng em mở máy computer xem lại những bước chân của các vị phi hành gia đặt lên mặt trăng lần đầu tiên, năm 1969. Chuyến bay của phi thuyền Apollo 11 lừng danh. Em hào hứng hỏi Mẹ từng chi tiết. Mẹ quên buồn, kể em nghe về những phút giây cảm động, mọi người ngồi dán mắt lên màn hình ti-vi, say sưa như thể mình đang được sống trên quê hương của Chú Cuội, Chị Hằng.


4

“Trên một ngàn năm trăm học sinh phổ thông rơi vào cảnh mồ côi do cha mẹ mất vì dịch COVID-19, chỉ riêng ở Sài Gòn.” 

Đọc bản tin, em lạnh cả người. Em nghĩ con số này sẽ còn tăng lên nữa, khi mà dịch bệnh chưa bị đánh bại. Tự nhiên em muốn cầu xin các đấng thiêng liêng cứu vớt con người. Tuổi nhỏ của em không mộng mơ như Mẹ ngày trước. Em không mơ lên mặt trăng. Em chỉ mơ, ngay bây giờ đây, có được một bầu không khí trong lành để thở, có được lớp học với đông đủ thầy cô, bạn bè, dạy và học với nhau trong không gian thực, không qua ipad, cell phone; hay phải giam mình lặng lẽ nhớ lớp, nhớ trường vì không có phương tiện. Em chỉ mơ khu xóm nhà em rộn vui tiếng trẻ con nô đùa, tiếng xe chạy qua lại rộn ràng. Em chỉ mơ thành phố bừng lên sau giấc ngủ dài, người người hớn hở mua bán xôn xao.

Em nhìn lên trăng qua khung cửa sổ. Đêm nay trăng đã tròn. Trăng chiếu vào nơi Bà Ngoại ngồi. Em thấy nhớ Bà Ngoại quá! Chú Cuội, Chị Hằng đi vắng rồi! Chỉ còn vầng trăng trải một màu thương nhớ.

Bỗng em nghe tiếng Mẹ thì thầm. Em lắng nghe. Mẹ ở trong phòng. Mẹ đang nói chuyện điện thoại với Ba. Tiếng của Mẹ nghe khác lạ.

“Có gì thì anh về nhé!”

Không nghe Ba nói gì bên kia đường dây. Em nghe Mẹ nói tiếp:

“Chỉ là xét nghiệm dương tính thôi. Em sẽ cố gắng tự cách ly. Con mình cũng hiểu biết lắm, anh đừng lo nhiều. Em đã có một mũi vaccine trong người. Mình sẽ vượt qua.”


Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Mùa Trung Thu 2021

(1): Rước Đèn Tháng Tám, tác giả: Nhạc sĩ Vân Thanh (Đức Quỳnh)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.