Hôm nay,  

Thú Tiêu Khiển

03/01/202220:10:00(Xem: 3965)

Truyện ngắn

 

fishing

 

 

Thằng Brandon giật cần câu lên, cả một chùm năm sáu con cá giãy giụa, càng cố giãy thì lưỡi câu càng ngập sâu trong họng. Những con cá vùng vẫy trong tuyệt vọng không có đường thoát, số phận bọn chúng kể như kết thúc ở những lưỡi câu này. Cần câu của thằng Brandon gắn loại lưỡi câu chùm, mỗi lưỡi lại gắn một con cá mồi bằng chất dẻo, bọn cá đối, cá mòi… háu ăn bập vào là rồi đời. Mùa này cá nhiều và táo tợn lắm, bởi thế thằng Brandon có lúc kéo lên cả mười mấy con dính chùm, tiếng reo hò tán thưởng từ những người xung quanh càng làm cho Brandon hãnh diện là một cần thủ giỏi.

 

Sean đứng kế bên thằng Brandon nãy giờ, nhìn nó câu mà lòng miên man với những ý nghĩ không đầu không cuối. Chợt Sean liên tưởng đến một đoạn trong kinh Địa Tạng: “Lại có quỷ dạ xoa túm bắt tội nhân trong biển này, lại có quỷ lấy chĩa ba đâm tội nhân rồi dồi lên không, lại có loại quỷ lấy móc câu kéo lưỡi người tội ra...” Những con cá đau đớn giãy giụa vì họng móc vào lưỡi câu, cái chết đối với bọn chúng là chắc chắn rồi, đời vẫn bảo không có gì chắc chắn nhưng duy có cái chết thì chắc chắn! Cái chết của những con cá kia đau đớn quá, những con cá mắc câu cố vùng vẫy vừa đau đớn vừa ngạt vì thiếu nước và oxy, không biết bọn chúng có thần thức không? Nếu có thì sự oán hận của chúng sẽ gia tăng theo mức độ đau đớn mà chúng thọ nhận.

 

Thằng Brandon hạ cần câu trên cầu đi bộ, những con cá nhảy tưng tưng, Brandon gỡ từng con ném vào thùng nước đá. Những con cá chưa chết, chúng lại phải trải qua một ách nạn khác, đó là sự lạnh giá cực độ, lạnh đến đông cứng chúng lại, hàn ngục là đây chứ còn đâu nữa! Trước khi chúng chết, chúng phải trải qua bao khổ nạn mà lẽ ra chúng không phải bị nếu người ta không câu chúng. Chúng vốn sống tung tăng dưới biển chẳng gây hại cho ai, cớ sao con người câu chúng, bắt chúng, hành hạ chúng trước khi ăn thịt chúng? Những con cá lờ đờ dần, cái lạnh đã thấm vào từng tế bào chúng, có nhiều con đã tắt thở nhưng vẫn còn một số thoi thóp ngáp, chúng sẽ bị đông cứng như đá để thịt chúng khỏi bị ươn. Mới chỉ trong phút chốc mà những con cá phải trải qua mấy lần luân hồi. Chúng vừa tung tăng trong làn nước biển xanh kia, phút sau đã bị móc vào những lưỡi câu và kế tiếp bị quẳng vào thùng đá lạnh. Mới phút trước còn tranh mồi, tranh con cái. Giờ cả những con mạnh lẫn những con yếu đều cùng chết bởi những cần thủ trên bờ. Bọn chúng đang bơi lội trong biển này sung sướng lắm, vậy mà giờ nằm trong thùng lạnh tối đen.

 

Dòng suy tư cắt ngang vì một cơn gió mạnh, Sean bước dọc theo cây cầu đi bộ xìa ra biển, những du khách tản bộ như Sean khá nhiều, hình như ai cũng thích thú thấy rõ khi một ai đó giật cần câu lên với những con cá dính câu giãy giụa. Những cần thủ hai bên thành cầu hình như đều là những tay chuyên nghiệp, trang bị như lính ra trận, nào là nón chống nắng, áo dài tay, kiếng chống tia UV, găng tay, vợt, cần câu dự bị, cước, lưỡi câu, thùng đá… Họ im lìm nhẫn nại chờ những cái phao rung động. Họ mang theo ghế ngồi và cả chăn để quấn khi gió lạnh. Sự kiên nhẫn của những cần thủ thât đáng nể, hàng giờ trôi qua, cả buổi ngồi thu lu trên cầu, thậm chí câu cả đêm. Trong số những cần thủ trên cầu đi bộ này có rất nhiều chiến hữu gốc Mít, còn lại là một số Mễ và da trắng. Sean mon men gần một ông già Mỹ trắng, ông ta vui vẻ mở thùng đá cho Sean xem thành quả của mình, có nhiều loại cá mà Sean không biết tên, đặc biệt có những con dài cỡ hai gang tay và to bằng cườm tay, miệng thì nhọn như một mũi dùi. Chúng còn sống và giãy rất mạnh. Sean chợt nảy ra ý nghĩ mua chúng và trả chúng về biển cả.

 

– Ông có thể bán cho tôi số cá này không?

 

 Ông ấy không nhìn Sean, mắt vẫn chăm chăm ở cái phao lập lờ trên mặt nước.

 

– Mầy thích thì tao cho mầy một con, tao không thể bán.

 

– Cảm ơn ông, nhưng tôi muốn mua hết số này, tại sao ông không thể bán?

 

– Tao không thể bán ở chỗ này, giấy phép câu cá của tao chỉ là gỉai trí, nếu tao bán ở đây thì họ sẽ thu hồi giấy phép ngay lập tức!

 

– Ở đây đâu có ai biết, chỉ có ông và tôi thôi!

 

– Nhưng tao không thể bán, cho mầy một hoặc vài con đấy!

 

Sean thôi nài nỉ, biết tính cách người Mỹ là thế! Luật là luật, họ rất tôn trọng luật, thẳng thắn và ngay thật. Trên đường phố cũng thế, dù là nửa đêm hay mờ sáng, dù đường vắng không có xe họ vẫn dừng ở đèn đỏ, không có ma lanh tranh thủ như người xứ mình. Sean bắt một con cá trong thùng đá và cảm ơn ông Mỹ trắng già. Sean đem con cá đến gần cuối cầu đi bộ, thì thầm:

 

– Tao trả mầy về lại biển cả, nhà của mầy ở đấy, bạn bè và gia đình của mầy ở đấy, đừng ham mồi kẻo không lại dính câu nữa nhé! Tao tiếc là không thể cứu được nhiều hơn, đồng loại của mầy đang dính câu và ở trong thùng đá kia.

 

Con cá chạm mặt nước lập tức vẫy đuôi và mất hút ngay trong làn nước xanh như ngọc. Nước biển trong và xanh đẹp quá, từng đàn cá bơi lội quanh chân cầu, chúng nhiều vô số. Cũng trong làn nước trong xanh ấy, những lưỡi câu nhọn hoắt và đầy khía cạnh như mũi tên móc con mồi nhiều màu sắc, bọn cá biển vô tri kia sẽ chết vì những miếng mồi giả này! Đời sống tự nhiên vốn đã khắc nghiệt, cá lớn nuốt cá bé là chuyện thường tình nhưng những lưỡi câu và lưới quét của con người mới là kiếp nạn của chúng. Con người đang khai thác tàn khốc, không có một loài vật nào thoát khỏi bàn tay và miệng lưỡi của con người. Thật tình mà nói thì bàn tay và miệng lưỡi của con người cũng chỉ là thừa hành. Thủ phạm chính vốn vô hình vô tướng nhưng điều khiển tất cả, kẻ vô hình ấy chính là tâm ý của con người, cái tâm tham vô độ, cái tâm sân hận và si mê. Tâm ý khởi lên rồi thì tay chân cứ thế mà hành, miệng lưỡi cứ vậy mà mặc sức ăn hay nói. Những con vật chạy trên rừng, bơi dưới biển, bay trong không trung… đều chết vì con người, nhiều loài trong số bọn chúng đã bị tuyệt diệt và một số đang có nguy cơ biến mất khỏi hành tinh này. Những con cá voi vốn là chúa tể đại dương vậy mà giờ cũng đang đối mặt với sự tuyệt diệt. Số lượng chết vì cần câu của những cần thủ thì không đáng là bao, nhưng vấn đề là ở chỗ chúng chết thảm quá, đau đớn quá.

 

Sean nhìn xa xa ra khơi, biển mênh mông biết nhường nào, đứng trên cây cầu đi bộ gần bờ này mà đã thấy mình quá nhỏ bé huống hồ gì ra ngoài khơi giữa trùng dương. Sean có cảm giác mình cũng không khác gì những con cá nhỏ bé kia, ngay cả những du khách tản bộ và những cần thủ kia cũng như thế. Những con cá mang hình dáng con người và có tư duy, tuy mang hình dáng con người có tư duy nhưng hành xử cũng không khác gì những con cá, vẫn là cá lớn nuốt cá bé, vẫn là những con cá chết vì mồi, hình như ở thế gian này người và vật đều chết vì mồi. Cái khác nhau là mồi của cá chỉ đơn giản là giun, tép hay mồi giả bằng chất dẻo. Mồi của con người thì phong phú hơn, đó là: tiền bạc, sắc dục, danh tiếng, ăn uống, chơi bời... Những cái chết đau đớn, những cái chết chắc chắn, chết vì mồi! Trùng dương bao la nhưng lòng người thì nhỏ bé, gút mắc, khép chặt như hũ nút. Trùng dương đẹp mênh mông với những con tàu lướt sóng lãng mạn nhưng trong lòng ngầm chứa bão tố, sóng lớn vô cùng nguy hiểm. Lòng người nhỏ hẹp nhưng mức độ tham lam thì sự mênh mông của đại dương cũng không đáp ứng nổi. Lòng người luôn loạn động vì tranh đoạt, vì mưu hại nhau để giành những miếng mồi ngũ dục đầy nguy hiểm. Cá lớn nuốt cá bé là tự nhiên kia nhưng người hại người là xã hội này!

 

Đi loanh quanh trên cây cầu, Sean lại đụng mặt một anh chàng Mỹ trắng, anh ta câu được con cá nào cũng cười hớn hở đầy thích thú, có lẽ anh ta tự hào vì thành tích của mình. Có một điều làm cho Sean ngạc nhiên là anh ta gỡ con cá ra khỏi lưỡi câu, hun gió cái chụt, gọi con cá là baby rồi thả lại xuống biển. Thì ra anh ta chỉ câu cho vui, câu giải trí như một môn thể thao chứ không phải để đem về ăn như những cần thủ ở đây. Những con cá dính câu anh chàng này xem ra còn dư phước, tuy bị lưỡi câu móc họng đau đớn và hoảng sợ nhưng chưa đến nỗi mất mạng. Anh chàng Mỹ trắng câu cá làm thú tiêu khiển, đây cũng là thú vui của rất nhiều người ở xứ này. Sean có nói chuyện mấy người Mỹ câu cá rồi thả lại xuống biển thì mấy cần thủ gốc Mít cười: “Mấy thằng đó khùng”. Thật tình mà nói mấy cần thủ gốc Mít sẵn sàng câu cả cá non và những loài bị cấm, những loài được bảo vệ. Ở xứ này quá phong nhiêu, vật chất dư thừa, miếng ăn thức uống quá thừa mứa nhưng lòng tham vẫn không vừa, câu cả cá chưa đủ lớn, câu vượt mức cho phép, đây chỉ là cái tham vặt nhưng gây cái tiếng không tốt cho dân Mít mình.

 

Ở cái xứ giàu mạnh và sung túc này, người ta câu cá như là thú vui tiêu khiển, những tháng hè thì săn bắn ở núi rừng. Những người giàu có còn sang tận châu Phi để săn bắn những động vật hoang dã trong thiên nhiên như: Sư tử, Hưu cao cổ, voi… Bọn họ săn không phải để ăn, chỉ để thõa mãn cái tánh háo danh của mình, chỉ để sự phô bày cái bản ngã ích kỷ mà thôi! Con thú chỉ săn mồi khi đói, con người săn để làm vui. Con cá chỉ nuốt khi đói nhưng con người hại nhau ngay cả khi quá đầy đủ và sung mãn.

 

Bạn bè thường rủ Sean đi câu nhưng Sean từ chối, có người thắc mắc tại sao nhưng Sean không trả lời, cũng có bạn lờ mờ hiểu lý do Sean không đi câu nên từ đó không rủ nữa.

 

Biển mùa hè lộng gió, trời xanh nắng vàng, nước biển như ngọc… đẹp quá! Cuộc đời đẹp quá, cần chi phải câu cá mới vui hay săn bắn mới là tiêu khiển? Sean bơi lội thỏa thích trong làn nước mát trong xanh, Sean lặn một hơi thật dài đến khi cạn hơi mới ngoi lên. Sean chỉ thử nín thở trong môt phút mà thấy ngộp vì thiếu oxy, vậy mà những con cá bị mắc câu, bị đem lên cạn thì nó sẽ ngộp biết dường nào.

 

 

Bãi biển rộng thênh thang, nam thanh nữ tú nằm phơi nắng, nhiều tấm thân kiều diễm vô cùng hấp dẫn. Lòng Sean lay động và trỗi lên sự thèm khát và mong ước chiếm đoạt. Xem ra Sean và loài người cũng như những con cá kia, khó mà cưỡng lại những món mồi dụ hoặc. Xế chiều theo tàu ra khơi xem cá heo, từng bầy cá heo tung tăng bơi lội, chúng phóng lên khỏi mặt nước và nô đùa như những em bé. Những con cá heo vui sướng tận hưởng cuộc sống của loài cá, chúng may mắn hơn những loài cá khác, không có ai săn bắt chúng để ăn thịt, có lẽ nhờ dư phước từ kiếp quá khứ. Chỉ có một số ít bị bắt để làm xiếc hay nhốt trong bể kiếng để khách xem. Những con cá heo sung sướng hơn đồng loại cá ở biển cả. Những con cá heo thông minh và tánh linh khá cao, con người lợi dụng chúng để phục vụ cho mình.

 

Chiều muộn, tàu quay vào bờ, bãi cát vẫn đầy người phơi nắng, những cần thủ câu cá vẫn nhẫn nại ngồi đấy mắt chăm chăm nhìn những cái phao trên mặt nước. Sean về khách sạn nghỉ ngơi, cái nắng, gió biển và muối làm cho da Sean rát bỏng, cả thân mình đỏ rực như tôm luộc. Sean lẩm bẩm:

 

– Thế mà những cần thủ câu cá phơi nắng gió cả ngày và nhiều ngày như thế! Thật khó hiểu nổi, lấy cái đau đớn và chết chóc của vật làm vui, lấy cái khổ của mình làm thú tiêu khiển.”

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 12/21)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.