Hôm nay,  

Kéo Pháo Ra?

31/03/202219:57:00(Xem: 5483)

Lịch sử quân sự

dbp 2


Nhân ngày tang của đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhật trình cánh tả Le Monde số ra ngày 4 tháng 10-2013 đăng bài “Anh hùng của nền độc lập Việt Nam đã chết” (Le général Giap, héros de l'Indépendance vietnamienne, est mort) của ký giả thân Cộng Jean-Claude Pomonti từng bị chính phủ VNCH và Hoàng gia Miên trục xuất. 


Năm 2004, Pomonti quay lại Hà Nội và thực hiện phỏng vấn Võ Nguyên Giáp. Pomonti ghi trong bài viết: 


“Giáp say mê Nã Phá Luân và trong tất cả những chiến thuật của Bonaparte, Giáp giữ lại yếu tố bất ngờ. Trước sự ngạc nhiên của chúng tôi, Giáp kêu lên: ‘Việc Bonaparte đào thoát khỏi đảo Elbe về đất liền cầm quân, là tuyệt vời!’ Giáp muốn nhắc đến việc vua Louis XVIII gửi ngự lâm quân chặn bắt Nã Phá Luân nhưng rồi đạo quân ấy đã theo hoàng đế. Một nháy mắt của Giáp về sự trung thành của các tướng lĩnh đối với chính mình. […] Giáp còn là một thiên tài tiếp vận. Một ngày, Giáp nhắc lại với chúng tôi phương châm mà Bonaparte vận dụng khi hành binh sang Ý: ‘Nơi nào một con dê chui qua, một người lính có thể vượt qua. Nơi nào một người lính có thể đi qua, một tiểu đoàn có thể hành quân.’ Giáp nói tiếp: ‘Ở Điện Biên Phủ, để cung cấp 1 ký gạo cho bộ đội đang vây cứ điểm, dân công tiêu thụ 4 ký trong lúc vận chuyển. Chúng tôi đã dùng 260,000 dân công, 20,000 xe đạp, 11,800 bè gỗ, 400 xe vận tải Molotova và 500 ngựa.’ Dưới sự che chở của rừng rậm, đại bác Việt Minh đã được tháo rời từng cơ phận để mang lên các ngọn đồi nhìn xuống lòng chảo, rồi ráp lại.” [1]


Là ghi chép của Jean-Claude Pomonti.


Với những ai quan tâm chiến tranh, nếu đã có một thiên tài quân sự, thì thiên tài đó phải là Trần Đăng Ninh, tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần Việt Minh đã cung cấp vũ khí, thuốc men, đạn dược, lương thực cho quân đoàn tác chiến chủ lực Việt Minh trong suốt 9 năm chiến tranh, không bao giờ thiếu, bất kỳ địa hình trận đánh. Một Trần Đăng Ninh mà trong hồi ký Võ Nguyễn Giáp không một lời tri ân. Trừ phi… chính các cố vấn Tàu: trung tướng Vu Bộ Huyết (于步血) tổng cục Hậu cần, chủ nhiệm quân nhu-quân dụng, thiếu tướng Mã Tây Phu (马西夫), tổng cục tài chính-lương thực, thiếu tướng Lý Học Thư (李学) quản lý vật tư … phụ trách và làm hết?  


Trên các trang sử Quân đội Nhân dân, thường xuyên số dân công được ghi 25,000. Phía Pháp ước tính 70,000 cho trận Điện Biên. Lần đầu tiên Võ Nguyên Giáp thừa nhận sử dụng 260,000 dân công. Cưỡng bách hay tình nguyện? Những ai sống trong Nam sau 75 biết rõ: mỗi hộ, mỗi tổ dân phố phải cắt cử người đi lao động XHCN cho đủ chỉ tiêu Phường-Quận. Vào thời chiến, chắc chắn là một bắt buộc trong những vùng “giải phóng”.


Phần quan trọng trong tường thuật của Pomonti là câu hỏi về việc kéo pháo ra khỏi thung lũng, lui ngày tấn công đã ấn định 25 tháng 1 sang 13 tháng 3-1954. Võ Nguyên Giáp trả lời bằng Pháp văn: “Le chef de nos conseillers chinois s’était prononcé pour une attaque rapide. Je donne l’ordre de retirer les troupes, y compris l’artillerie. La décision la plus difficile de ma carrière de commandant en chef.” (Cố vấn trưởng Trung quốc muốn đánh nhanh. Tôi ra lệnh rút quân ra, kể cả pháo binh. Là quyết định khó khăn nhất trong binh nghiệp Tổng chỉ huy của tôi.)  


Trong chương Quyết Chiến Điện Biên Phủ, đăng trong Thượng Tướng Phong Vân Lục, Nxb Đại Bách Khoa Toàn Thư năm 2000, Vương Chấn Hoa (王震华) cho một phiên bản khác: Chính Vi Quốc Thanh (韋國清), cố vấn trưởng Trung cộng, lấy quyết định hoãn tấn công và thay đổi phương thức đánh nhanh, thọc sâu, giải quyết chiến trường “nở hoa từ trung tâm” bằng cách áp sát, “bóc măng” từng lớp. [2]


Đâu là sự thật?


Đa phần sự thật không nằm trong những lý lẽ mà Võ Nguyên Giáp cũng như Vi Quốc Thanh viện dẫn, và một cách trùng hợp cả hai cùng viện dẫn chung những lý lẽ: Quân đoàn Tác chiến Việt Minh chưa chuẩn bị đủ; cần đưa sư đoàn 308 sang đột phá Thượng Lào để Navarre phải phân tán binh lực; các đại đoàn trưởng chưa tin chắc thắng. Các lý lẽ này ít đứng vững. Trước mỗi chiến dịch, Việt Minh đều rèn quân chỉnh cán, chiến sĩ và cán bộ chỉ huy đều phải học tập thông suốt đường lối chỉ đạo, thấm nhuần ý chí quyết thắng cũng như tuyệt đối tin vào đường lối đúng đắn của Đảng. Không được quyền băn khoăn, vì sẽ bị xem là “dao động”, chưa “giác ngộ”, còn “hữu khuynh”, chưa gột rửa tinh thần tiểu tư sản ngại gian khổ. Chưa “quyết tâm phấn đấu”… Trên mặt quân sự, với 5 sư đoàn chính quy 304, 308, 312, 316, 351 cộng thêm trung đoàn độc lập 148 lên đến 60,000 lính, Việt Minh chiếm ưu thế tuyệt đối về quân số. Binh lực Pháp đã bị phân tán trước đó, không cần sư đoàn 308 đánh Thượng Lào, vì Navarre đã huy động toàn bộ tổng trừ bị tái chiếm Phú Yên-Bình Định cho chiến dịch Atlante đang diễn ra. Quân đồn trú Điện Biên Phủ không hề giảm đi sau khi sư đoàn 308 sang Lào.


Lui ngày tấn công, như thế không thay đổi chung cuộc. Với công sự không đủ sức chịu pháo, không đường bộ tiếp tế, khả năng không trợ kém, mười ngàn binh sĩ Liên hiệp Pháp tại Mường Thanh không có lối thoát giữa rừng núi vây bọc. 


Nhưng như vậy, thì vì sao Võ Nguyên Giáp và Vi Quốc Thanh bất ngờ lui tấn công một tuần trước khi khai trận? Lui tấn công còn cho de Castries thêm thời gian củng cố chiến lũy. Vì sao?


Chính vì Hội nghị Bá Linh bắt đầu ngày 25 tháng 1-1954, là ngày ấn định khai chiến ban đầu. Anh, Pháp, Nga, Hoa-Kỳ ngoài bàn đến vị trí của Đức sau thế chiến, còn tìm cách giải quyết “vấn đề Đông Dương”. Nga-Sô yêu sách thành công sự tham gia của Trung cộng trong vòng đàm phán thứ nhì sẽ diễn ra vào tháng 4-1954 tại Genève. Chính đây mới là nguyên nhân lui tấn công sang giữa tháng 3 của Võ Nguyên Giáp (hoặc Vi Quốc Thanh). Chính từ lúc này Bắc Kinh sẽ gia tăng viện trợ tối đa cho Việt Minh để Chu Ân Lai đến Genève trong thế thượng phong. 

blank

Mô hình tái hiện cảnh Việt Minh kéo pháo vào trận địa.
(Bảo tàng Chiến thắng Lịch sử Điện Biên Phủ).

 

Nếu chiến tranh là cánh tay nối dài của chính trị, như Clausewitz định nghĩa, và với ai am hiểu tổ chức của các quân đội Cộng sản từ Nga sang đến Tàu rồi Việt Minh, thì một quyết định ngưng ngang quan trọng như vậy phải do Mao gửi công điện cho Vi Quốc Thanh hoặc Hồ Chí Minh yêu cầu Võ Nguyên Giáp trì hoãn. Cá nhân Võ Nguyên Giáp không thể lấy một quyết định ảnh hưởng đến cục diện cuộc chiến mà không thông qua Tổng bí thư kiêm Tổng quân ủy trung ương là Trường Chinh lúc đó. Nhưng vì sao đã ngưng ngang?


Vì cả Mao và Hồ Chí Minh đều muốn biết kết quả hội nghị Bá Linh diễn ra cuối tháng Giêng. Cả hai không muốn dốc hết vốn liếng vào một canh bạc. Chu Ân Lai phải có mặt ở Genève thì Điện Biên Phủ mới nặng nghìn cân, ngược lại, chỉ là một trận đánh như trận Nà Sản trước đó. 

Cho đến khi ấy ngoài khối Cộng sản, Trung cộng chưa được công nhận như một quốc gia Trung Hoa mà vị thế chính thức là Đài Loan. Chiến tranh Cao Ly khiến Bắc Kinh bị cô lập. Một mình Nga-Sô sau “băng hà” của Stalin không đủ sức nặng. Sự có mặt của Chu Ân Lai mới làm lệch cán cân. Tầm quan trọng của Hội nghị Bá Linh là đây. Bắc Kinh phải có tiếng nói, sức áp đảo trên trường quốc tế thì những chi viện cho Việt Minh mới đáng công, đáng của. 


Trước Bá Linh, quân viện cho Việt Minh bằng người, ngựa, lừa. Sau Bá Linh là hàng đoàn xe Molotova từ Hà Khẩu (Vân Nam) sang Lào Cai rồi xuống đến tận Tuần Giáo chỉ cách Điện Biên Phủ 70 cây số. Anh hùng Tô Vĩnh Diện và xe đạp Peugeot chỉ “thi công” vận tải từ binh trạm Nà Nhạn, trên 20 cây số cuối cùng. 


Trước Bá Linh, Mao và Hồ Chí Minh “chắc thắng” nhưng ý thức sẽ hao tổn binh lính. Vì Điện Biên mạnh gấp đôi Con Nhím Nà Sản mà tại Nà Sản, cả hai sư đoàn 308 của Vương Thừa Vũ và 312 của Lê Trọng Tấn đều “thất thu”. Không đột phá. Chịu tiêu hao. Tại Điện Biên, giá “mạc chược” phải cao hơn. 


Dốc hết túi vào một canh bạc khiến Mao cân nhắc. Một chiến thắng phải có tầm ảnh hưởng chính trị, phải là tiếng sấm rền trong chính giới quốc tế có quyền định đoạt vận mệnh Đông Dương, thì mới thích đáng. Là lý do cho việc kéo pháo ra của Võ Nguyên Giáp. Có nghĩa, khi ấy, Cộng sản chưa quyết đánh. 

 

Hội nghị Bá Linh khai mạc 25 tháng 1-1954 và kết thúc ngày 18 tháng 2-1954. Trên trang Báo Điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong bài "Kéo Pháo Vào, Kéo Pháo Ra - Quyết Định Khó Khăn Nhất!", viết: “Thực hiện quyết định của Bộ Chỉ huy chiến dịch, ngay từ chập tối ngày 26-1-1954, lực lượng pháo binh của ta đã đồng loạt tiến hành rút khỏi trận địa. […] Với những nỗ lực và quyết tâm của bộ đội pháo binh, mờ sáng ngày 5 tháng 2-1954 (tức mùng 3 Tết âm lịch), khẩu pháo cuối cùng đã được kéo về vị trí tập kết, nhiệm vụ kéo pháo ra đã hoàn thành thắng lợi.”  


Như thế, dân Việt hôm nay biết tiến trình kéo pháo ra bắt đầu ngày 26, một ngày sau hội nghị Bá Linh khai mạc. Nhưng rồi sau đó, sau “thắng lợi đàm phán Béc-lin” thì kéo pháo lên núi trở lại lúc nào? Quân đội Nhân dân không nhắc đến.

blank


Trên trang web
ANTV - Truyền hình công an nhân dân, bài “Con đường kéo pháo huyền thoại trong chiến dịch Điện Biên” đăng ngày 7 tháng 5-2019 nhân kỷ niệm 65 năm Điện Biên Phủ, viết: “Cho đến hôm nay, cựu chiến binh Phạm Đức Cư, một chiến sỹ của Trung đoàn 367 pháo cao xạ năm xưa vẫn còn nhớ rõ từng con dốc, con đèo mà ông và những đồng đội đã gồng sức, gồng mình đưa pháo qua. Sau 9 ngày đêm, lực lượng của ta đã đưa pháo vào chiếm lĩnh trận địa an toàn, bí mật. Tuy nhiên, ngay sau đó, khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định đổi phương châm tác chiến từ đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc tiến chắc, lực lượng pháo binh lại nhận được lệnh kéo pháo trở lại nơi tập kết vất vả gian khổ gấp đôi song tất cả vẫn quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ bằng mọi giá...” 


Có nghĩa, phải mất 9 ngày đêm để kéo pháo lên núi trở lại. Là ít nhất. Rồi thêm vài tuần lễ nữa cho pháo thủ lấy lại sức, lập phương án mới, tái phối trí, tái tiếp tế và phối hợp bộ binh. Vì vậy khai trận 13 tháng 3.


Huyền thoại “kéo pháo ra” vẫn được xem là thiên tài của Võ Nguyên Giáp, trên thực tế không cần thiết. Vì cho đến kết thúc, các tiền sát viên pháo binh Pháp và Phi đoàn Quan sát Pháo binh Bắc phần đã không xác định được vị trí pháo Việt Minh. Đại bác 105 ly của sư đoàn nặng 351 đều đặt trong hang núi, ngụy trang và kéo ra khi bắn. 


Là huyền thoại. Còn thiên tài thực sự?


Báo Đảng ca ngợi: “Chiến thắng Điện Biên lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu khẳng định tư duy quân sự sắc sảo và linh hoạt của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với quyết định chuyển phương án tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.

  

“Tư duy quân sự sắc sảo” gộp trong ba mệnh đề: “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu; đánh chậm, đánh chắc, chắc thắng mới đánh; thần tốc, táo bạo, bất ngờ.” 


Mệnh đề 1: “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” không phải của Võ Nguyên Giáp mà của Tôn Tử, trong Binh Pháp yêu sách “Đánh vào khoảng trống” là nơi địch ít quân, bố phòng kém hoặc bất lợi.


Mệnh đề 2: “Đánh chậm, đánh chắc, chắc thắng mới đánh” là của tướng Thomas Jonathan Jackson trong nội chiến Nam-Bắc Mỹ: “Không bao giờ tác chiến nếu cơ may quá mỏng (Ne jamais se battre si les chances sont trop minces)”.


Mệnh đề 3: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ?”

 

Sau chiến thắng Biên Giới đầu tháng 10-1950, Việt Minh đã có thể chiếm Hà Nội vì quân Pháp hoảng loạn mất tinh thần liên tiếp rút khỏi Lạng  Sơn, Lào Kai, Hòa Bình. Phải mất ba tháng sau Võ Nguyên Giáp mới khai trận Vĩnh Yên ngày 13 tháng 1-1951, thì đã quá muộn, vì danh tướng de Lattre de Tassigny với quân viện đã sang Đông Dương (ngày 17 tháng 12-1950) khiến Vĩnh Yên là một thất trận của Việt Minh.  


Trên mặt hành quân, Võ Nguyên Giáp gần với Lord Bernard Montgomery ở tính thận trọng, chậm chạp điều binh, hơn là ở khả năng thần tốc của Guderian hay Rommel.    

 

Trần Vũ

(Tháng 3-2022)


[1] Le général Giap, héros de l'indépendance vietnamienne, est mort (lemonde.fr)

[2] Thượng Tướng Phong Vân Lục





Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.