Hôm nay,  

ĐẾM SAO

09/07/202217:28:00(Xem: 3305)
Tạp bút

star

Em hãy đếm những vì sao trên trời được bao nhiêu thì anh yêu em còn nhiều hơn thế nữa.
Bùi Quang Đoài (Một Câu Chuyện Tình)

- Anh về đếm hết sao trời,
Em đây kết tóc ở đời với anh.
(Ca dao)

 

Cô hàng xóm và tôi đang ngồi trên ngọn đồi cách xa thành phố, cùng ngắm nhìn những ngôi sao lấp lánh trên cao. Cô ngồi bó gối bên tôi. Chiếc váy “mini” quá ngắn, hớ hênh đến độ tôi cứ tưởng như những con "dế mèn, dế dũi" của nhà văn Tô Hoài quanh đây có thể nhẩy vào cái nơi hoang vắng thâm u ấy. Sự hớ hênh này thật chẳng thích hợp với khung cảnh nên thơ và trong sáng của đêm nay. Cô dựa đầu trên vai tôi, ngước mắt nhìn trời đếm những vì sao:

 

Một ông sao sáng

Hai ông sáng sao

Ba ông sao sáng

Bốn ông sáng sao.

 

Và cứ như thế, cô đếm không ngừng, tưởng chừng như càng đếm được bao nhiêu ngôi sao thì số lượng tình yêu của tôi dành cho cô cũng sẽ nhiều như thế.

 

Cô chợt ngừng đếm rồi quay sang nói với tôi bằng một giọng thật nũng nịu:

 

- Anh đếm đi!

 

- Đếm cái gì?

 

- Đếm sao! Đếm theo em đi.

Tôi ngập ngừng:

 

- Ừ… thì đếm!

 

Sao và sao, đâu đâu trên vòm trời cũng đều là sao cả. Có đến hàng vạn, hàng triệu, hàng ức ngôi sao đang nhấp nháy, ngôi tỏ ngôi mờ. Tôi phân vân không biết phải bắt đầu đếm từ ngôi sao nào.

. . .

Ngẫm sao con tạo xoay vần

Chờ cho đến tối dần dần mọc ra
Mọc ra vô số hằng hà
Thiên hà vạn ức biết là bao nhiêu

Trời quang sao mọc cũng nhiều

Đến khi trăng tỏ ra điều sao thưa.

. . .

(Ca dao)

 

Tôi chỉ cho cô những ngôi sao thật sáng và tôi tự đặt tên cho chúng với cái tên của những vì sao quen thuộc mà tôi đã từng nghe đến từ cái thuở xa xưa, cái thuở cô hàng xóm còn chưa ra đời.

. . .
Trên trời sao Bẩy sao Ba
Nhị thập bát tú cùng là Thất tinh

Sao Hôm chỉ mọc một mình

Sao Mai gà gáy chung tình với ai

Có Hôm mà chả có Mai
Kìa như sao Vượt chờ ai giữa trời
Nam tào, Bắc đẩu đôi nơi

Thần nông sao ấy trị vì làm ăn.

. . .

(Ca dao)


Tôi chợt nhớ tới và se sẽ hát "Bài Ca Sao" của Phạm Duy, đồng thời cũng vờ chỉ cho cô những ngôi sao có tên trong bài hát ấy. Cô nhìn tôi chớp chớp đôi mắt cảm động một cách ngờ nghệch vì cô tưởng đâu những câu tình tứ trong bài ca mà tôi đang hát là để chỉ dành riêng cho cô.

 

Sao Tua chín cái nằm kề

Thương em từ thuở mẹ về với cha

Sao Vua dăm cái nằm xa

Thương em từ thuở người ra người vào

Sao Mơ sáu cái nằm chầu
Sao Khuê mấy cái nằm đâu?
Sao Khuê mấy cái nằm dài

Thương em từ thuở tình ngoài nghĩa trong

Sao Măng năm cái nằm ngang

Thương em từ thuở mẹ mang đầy lòng

Sao Vua năm cái nằm tròn

Sao Tư bốn cái nằm vuông

Sao Hôm le lói đầu hè

Thương em từ thuở em về với ai

Sao Mai le lói ngọn cây

Thương em từ thuở về xây tình người.

Sao Vân xa tít đầu trời

Sao Quanh cao ngất ngoài khơi

Sao Vân muôn cái mịt mùng

Thương em từ thuở ngàn trùng cách chia

Sao Quanh theo gót người đi

Thương em chỉ có trời khuya nhìn về

Sao ơi, sao hỡi buồn gì?

Sao ơi, sao hỡi buồn chi?

 

Tôi lại còn bịa ra một lô tên cho những ngôi sao mà những tên ấy chưa hề từng có ở trên cõi đời này như sao Lưu Bị, sao Quan Công, sao Trương Phi, vì thấy chúng ở gần nhau như đang diễn ra cái cảnh kết nghĩa Vườn Đào. Cô hàng xóm của tôi thì mù tịt với những cái tên trong truyện Tầu ấy nên chỉ còn biết há mồm, ngẩn tò te thán phục.

 

Cô thích thú với sự chỉ dẫn rất "nổ" của tôi, hỏi:

 

- Anh học Thiên Văn à? Sao anh biết nhiều sao thế!

 

Tôi "nổ" tiếp:

 

- Ừ, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ này. Anh không biết thì còn ai biết. Cái gì mà anh chẳng biết!

 

Cô hỏi thêm:

 

- Thế sao Chổi ở đâu?

 

- Đằng kia kìa. Tôi bâng quơ chỉ tay về hướng những ngôi sao xa tận cuối chân trời.

 

- Sao nó không giống cái chổi?

 

- Hỏi vớ vẩn! Quét xong, ông Trời cất đi rồi. – Tôi bí nên gạt ngang, cười xòa.

 

Cô cười theo rồi cứ lấy tay đấm vào đùi tôi thùm thụp:

 

- Anh nói dối nhá, anh nói dối nhá!

 

Cô nói với một giọng rất "nẫu" mà cứ cho là rất nũng nịu ngây thơ. Đợi khi cô thôi đấm, nhớ đến nhà văn Vũ trọng Phụng than thân là mình đã sinh ra vào một ngôi sao xấu, tôi giải thích thêm:

 

- Người xưa tin rằng mỗi người dưới trần gian này sẽ tương ứng với một vì sao trên trời.

 

Cô chồm lên ngắt lời tôi:

 

- Thật hả? Thế ngôi sao của em ở đâu, tên gì?

 

Tôi chỉ vào một ngôi sao rồi nói:

 

- Kia kìa, tên là sao Băng.

- Tại sao tên là sao Băng? Cô chớp chớp đôi mắt ngạc nhiên.

 

Tôi ỡm ờ trả lời:

 

- Tên Băng vì em lạnh như băng (giá) ấy!

 

- Thế ngôi sao của anh phải nóng lắm hả. Chắc nó tên là Lửa (sao Hỏa)?

 

Nói xong câu ấy, cô tự cho đó là câu nói đùa đầy dí dỏm, mặt vênh vênh đắc ý rồi phá lên cười. Tiếng cười của cô lanh lảnh vang xa làm con sóc gần đó sợ hãi chui tọt vào hang.

 

Tôi mỉm cười hóm hỉnh đáp:

 

- Không phải. Sai rồi. Ngôi sao của anh ở tít đằng xa kia kìa, tên là sao "Nổ".

 

- Sao "Nổ"? Em chưa hề nghe thấy bao giờ.

 

- Sao "Nổ" thì nhiều lắm. Mỗi sao nổ một cách.

 

Tôi nghiêm giọng, ra vẻ thầy đời, lên giọng dậy dỗ:

 

- Em không biết à? Những ngôi sao “Nổ” này cùng họ hàng gần với sao "Phét" (nói phét), gần với sao "Khoác" (khoác lác)... Thường thì những ngôi sao này rất mờ. Vì rất mờ so với những ngôi sao khác nên chúng phải nổ để mong cho mình được sáng thêm lên và được mọi người chú ý tới. Vì là sao “nổ” nên khi nổ, âm thanh của nó thường chát chúa đến đinh tai nhức óc, nhưng cũng có khi tiếng nổ chỉ lẹt đẹt vài tiếng như pháo "tép " trẻ con chơi trong ba ngày Tết. Tiếp theo những tiếng nổ thường là những sự đổ vỡ, vỡ cửa vỡ nhà hay vỡ mặt, hay còn có khi "vỡ nợ" nữa. Và cái "vỡ nợ" bẽ bàng gần nhất là những câu thường được nghe thấy liền sau tiếng nổ: "Nổ rồi mà chỉ sáng được có thế thôi à!"

 

Cô nghển cổ im lặng nghe tôi nói một cách hết sức thành khẩn, thành khẩn đến trở thành ngu ngơ, ngốc nghếch. Tay cô xoa nhẹ lên chiếc váy nơi bị muỗi đốt. Muỗi ở đây đốt đau và ngứa ngang với muỗi West Nile chết người. Hết xoa cô lại lấy hai ngón tay lúc cấu, lúc véo cho đã cơn ngứa. Có khi cô cho hẳn bàn tay vào trong để gãi. Động tác gãi của cô quá tự nhiên, tự nhiên đến độ tôi không thể trách cô tại sao lại làm như thế trước mặt một người đàn ông đứng đắn như tôi, một người vốn cầm tinh sao "Nổ".

 

Cô vẫn há hốc mồm ra chiêm ngưỡng nhìn tôi dù tôi đã ngừng nói từ lâu. Cô cứ ngẩn người ra như Từ Hải chết đứng pha lẫn nét đăm chiêu. Rồi cô nhìn lên trời cao, buông thõng một tiếng bất ngờ:

 

- Xạo!

 

- Xạo gì? Tôi trố mắt hỏi.

 

- Anh nói em cứ đếm trên trời có bao nhiêu vì sao, anh sẽ yêu em còn nhiều hơn thế nữa.

 

Tôi chưng hửng vì tôi cứ tưởng từ nẫy đến giờ cô đang lắng nghe tôi nói về những ngôi sao "Nổ". Tôi miễn cưỡng hỏi:

 

- Thế em đếm được bao nhiêu ngôi sao rồi?

 

- Được vài chục!

 

Tôi nháy mắt hỏi đùa:

 

- Thế còn chưa đủ cho em à?

 

Cô trở nên thông minh khác thường, đánh nhẹ vào cánh tay tôi cười ré lên:

 

- Anh này... nham nhở nhá... chưa đủ! Phải cả nghìn cơ!

 

Tôi không hiểu nổi chữ “nham nhở” cô dùng ở đây. Nói xong cô đứng lên vụt chạy ra xa, ngoảnh lại như chờ tôi đuổi theo sau. Tôi đứng dậy vươn vai nhìn trời cao. Tôi giật mình khi nhìn thấy một ngôi sao sáng quá. Ngôi sao ấy cứ nhìn tôi chầm chập và như trách móc tôi sao tới giờ này vẫn chưa về ăn cơm tối, bắt chờ. Tôi nhìn ngôi sao ấy, trong lòng không khỏi bối rối và có chút gì hổ thẹn. Tôi nói vọng về phía cô hàng xóm đã chạy ra xa với giọng gần như ra lệnh:

 

- Về!

 

Cô nói vọng lại:

 

- Chưa gì đã về!

 

- "Chưa gì" là chưa cái gì? Về!

 

Tôi vội rảo bước nhanh. Cô hàng xóm lật đật chạy theo sau.

 

Cô như vẫn còn ấm ức:

 

- Ngày mai anh phải đưa em lên đây đếm sao tiếp. Anh nhớ mang theo cái chăn nữa nhé, ngồi trên cỏ ngứa quá.

 

Cô chạy lên phía trước, vừa chạy vừa đưa hai tay ra sau cào gãi hai khối thịt nung núc đang tưng lên theo bước chạy.

 

Trời vẫn trong, gió vẫn thổi và những ngôi sao vẫn lấp lánh trên cao. Cô hàng xóm vẫn đổ dốc xuống đồi. Một ngôi sao xẹt ngang trời. Sao "Sa". Một ngôi sao vừa nổ tan tành. Buồn!

 

Và tôi cũng buồn cười vì thấy cô hàng xóm đã chạy xuống đến gần cuối chân đồi. Bóng dáng cô trở nên ngắn và tròn nên tôi cứ ngỡ như cô ấy đang lăn. Cũng may cô không phài là chị Doãn của nhà văn Vũ Trọng Phụng, một người đàn bà có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp trai, mà ngược lại, nhan sắc của cô thì lại đẹp vô cùng để cho tôi:

 

Buồn trông chênh chếch sao Mai,

Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ.

(Ca dao)

 

Nguyễn Giụ Hùng

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ngày nào em cũng nhắc mà anh cứ quên hoài. Rán uống thuốc cho mau hết bịnh,” cô chưa kịp dứt lời thì một tiếng sủa bung ra cùng lúc với cái gạt tay hung hãn, “Hết cái con mẹ cô ấy!” Ly nước tay này, lọ thuốc tay kia cùng lúc bật khỏi tay cô, văng xuống nền xi măng, ném ra một mảng âm thanh chát chúa. Cái ly vỡ tan. Nước văng tung tóe, những mảnh thủy tinh văng khắp chung quanh, vạch những tia màu lấp lánh. Không dám nhìn vào hai con mắt đỏ lửa, cô cúi đầu dán mắt vào vũng nước loang loáng, vào những viên thuốc vung vãi trên nền nhà. Những viên thuốc đủ màu làm cô hoa mắt (viên màu vàng trị đau, viên màu đỏ an thần, viên màu nâu dỗ giấc ngủ, cô nhớ rõ như thế...) Một viên màu đỏ lăn tới chân cô.
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.