Hôm nay,  

Vạn Điều Khó Nói

24/02/202300:00:00(Xem: 2826)



Trích đoạn truyện dài Thư Tình Viết Muộn

Tôi co quắp trên nền nhà. Cơn nhức nhối bồng bềnh như tảng băng trôi nổi trong đầu. T. đứng lừng lững trong khung cửa. Một người đàn bà đứng sát bên hắn. Ông anh sao thế này. Giọng nói của T. vẫn hệt như ngày nào. T. ngồi sụp xuống, lắc lắc vai tôi. Lại lên cơn nữa chắc.

Tôi loay hoay chống tay ngồi dậy. Bây giờ thì tôi nhìn rõ người đàn bà. Một người đàn bà rất trẻ và rất đẹp. Với tôi, tất cả đàn bà đều trẻ, đều đẹp (dĩ nhiên là không ai bằng cô ấy).

T. ném cái túi xách lên sa lông, tuột đôi giầy ra, dùng chân đá vào bên cạnh khung cửa.

Tôi đưa tay rờ rẫm mặt mình. Tôi vẫn còn nguyên vẹn.

Tôi nhìn T. Mới về đấy à. Rồi tôi nhìn người đàn bà. Người đàn bà có cái miệng rộng. Nụ cười xinh xắn. Nụ cười ấy tươi rói đôi môi có đường viền đỏ thẫm. Mầu hồng của son môi làm tươi thắm nụ cười hay nụ cười đẹp làm tươi thắm đôi môi tôi cũng không biết nữa. Người đàn bà chớp mắt hơi nhiều. Mí mắt xâm đặm đường viền đen. Con mắt lóng lánh tia nhìn gói ghém muôn vạn điều khó nói.

Lại quên uống thuốc nữa phải không ông anh. T. hỏi.

Tôi gật đầu cho qua chuyện. Ừ, bận quá. Bây giờ thì tôi nhớ. Tôi nhớ những vòng hào quang tỏa sáng căn phòng, tôi nhớ những đốm sáng bắn đầy không gian của những đêm pháo bông mừng ngày Quốc Khánh. Tôi nhớ cái điện thoại ở rất gần nhưng cũng rất xa tầm tay.

Sự trở về bất ngờ của T. làm tôi sững sờ. Hắn vẫn vậy. Bặt tông tích ít lâu. Nhiều khi tôi nghĩ hắn chết khô ở xó xỉnh nào đó hay đang ngồi đếm thời gian trôi bên trong hàng rào kẽm gai một trại giam nào đó của chính phủ Liên Bang.

Mỗi lần trở về, hắn thường dúi vào tay tôi một ít tiền, gọi là góp phần trả tiền thuê nhà.

Hắn cứ vậy. Chuyến này chắc đi hơi lâu, lúc biến đi, T. hay bảo tôi như thế.

Cái mặt sạm đen sừng sững trước mặt tôi. Tôi nhìn hắn như người ta nhìn một thây ma vừa đội mồ sống dậy.

T. cầm cổ tay tròn trịa của người đàn bà, kéo lại phía tôi.

“Ông anh kết nghĩa đây!”

Người đàn bà nhoẻn miệng cười, “Hello anh.”

Tôi gật đầu, lòng xớn xác cơn vui lạ mặt. Tôi chống tay ngồi dậy, nhìn quanh, bối rối. Đồ đạc trong phòng bồng bềnh trôi. “Chú mày không báo trước để anh dọn dẹp. Cái nhà như bãi rác.” Thường tôi gọi T. bằng “mày”. Có người đàn bà bên cạnh, nó được tôi thêm cho chữ “chú”, nghe trang trọng hẳn lên.

T. phá ra cười. Rồi nó ngậm miệng lại nhưng vẫn tiếp tục cười. Tiếng cười khùng khục như dòng nước lũ bị tắc nghẽn, lúc tuôn qua lòng cống hẹp.

Tôi nhìn vào vạch lông mày tỉa kỹ của người đàn bà.

Người đàn bà quét tôi bằng con mắt ướt rồi xoay đầu nhìn quanh. Những tờ báo quảng cáo của siêu thị quăng bừa bãi trên sa lông. Đống áo quần mới đi giặt về, chưa kịp xếp, nằm ụ lên một góc chiếc ghế dài trong phòng khách.

Rồi cái đầu tóc uốn quăn ấy xoay lại, trải tia nhìn lên tôi. Khi không tôi nghe ấm áp khắp châu thân, như lúc ôm gọn vào lòng đống áo quần nóng hổi vừa lấy ra từ máy sấy.

“Có gì đâu anh. Đàn ông mà được như vậy là giỏi lắm rồi.”

Rồi người đàn bà xoay qua T. “Phải không anh?”

Lúc nàng quay vòng, hình ảnh hụt hẫng của một thân hình đầy đặn, cong uốn, vun đầy, loang loáng những cánh hoa vàng trên nền áo lụa, bồng bềnh trước mắt tôi như chiếc phao, như cánh buồm bập bềnh trong lòng cơn bão biển.

“Ông anh giỏi lắm đó em. Đầu bếp số một.” T. vênh váo.

“Vậy sao?” giọng người đàn bà reo vui. “Vậy là khỏi sợ đói rồi.”

Tôi vui lây cái vui của T. và người đàn bà của nó.

Đầu óc lâng lâng, ngây ngất trong mùi nước hoa phảng phất từ mái tóc uốn quăn, từ manh áo lụa tím điểm những bông hoa vàng, từ phần thân thể trắng ngần kia. Mùa xuân nơi ấy. Mùa xuân gió lộng, thổi bay những cánh hoa vàng. Những cánh hoa mọc trên đồi cao. Những cánh hoa mọc trong lũng vắng. Thiên nhiên mở rộng. Hai ngọn đồi nhấp nhô. Mùi nước hoa tỏa ra từ trí tưởng, từ nước da trắng ngần.

“Quên giới thiệu anh. Đây là Jackie, người yêu của em.”

Tôi nghe cổ họng mình thắt lại. Không biết vì tuổi tác hay vì nỗi hoang mang. Tôi nhìn T., muốn bảo nó rằng mày lucky như vẫn thường nói, nhưng sự hiện diện của người đàn bà làm tôi bối rối.

Chắc T. hiểu ý tôi.

“Chuyến này dừng bước giang hồ.” T. nói cái câu nó thường hay nói mỗi khi trở về sau một thời gian bặt tông tích.

Tôi cười với tia nhìn lấp lánh cơn vui của người đàn bà.

T. hiểu. Hắn đứng ép sát người đàn bà, vòng hai tay ôm quanh hông nàng. Tôi nhìn hai bàn tay củi khô xoắn lấy nhau trên bụng người đàn bà, lòng nhói lên chút gì đó như một oan ức không nguôi.

“Thật đó! Chuyến này nhất định dừng bước giang hồ.”

“Đi kiếm gì ăn đi anh.” T. đề nghị.

“Ở đây có tiệm Việt Nam không anh?” Người đàn bà ngọt ngào câu hỏi.

Tôi kể tên của vài quán ăn quen.

“Mình đi ăn ở tiệm nào đây anh?” Người đàn bà hỏi.

“Tiệm nào cũng ô-kê hết.” T. trả lời.

Thế là ba đứa kéo nhau đi ăn tiệm. Nhưng trước khi bước ra cửa, tôi không quên chạy lên phòng ngủ, thay vội bộ quần áo, rồi lướt vào nhà tắm, vớt nước lên mái đầu rậm rì những tóc. Tôi nhìn mình chăm chú trong tấm gương soi. Mấy sợi lông mũi chĩa ra như châm chọc. Tôi loay hoay nhổ, nhưng tiếng T. đã réo vang ở tầng dưới. Hai đứa nó chắc đói bụng lắm rồi.

T. lái chiếc xe Nhật Bản. Trước khi mở cửa xe cho tôi chui vào, hắn nháy mắt với tôi, “Đừng hỏi gì nghe ông anh.”

Tôi trả lời ô-kê và lầm lũi chui vào băng sau. Mùi da bọc nệm ghế xoáy vào lỗ mũi nồng nồng. Jackie ngồi phía trước, nghiêng đầu dựa vào vai hắn. Những ngón tay người đàn bà táy máy những nút bấm giàn đèn xanh đỏ trước mặt.

Chuyện mưa nắng thời sự nổ vang trên đường đi. Tụi Mỹ đánh I-rắc ghê quá anh nhỉ. Thằng T. hăng hái đổi sang đề tài chiến tranh. Tôi không để ý gì mấy đến chuyện chiến tranh. Tôi đã hưởng đủ mùi vị chiến tranh ở Việt Nam ngày trước, dù lúc ấy tôi mới chỉ là thằng bé con chưa ráo máu đầu. Thành ra tôi cứ ậm ừ với chuyện ôm bom tự sát, chuyện thánh chiến nọ kia.

Xe ngừng. Tôi bước vội ra ngoài, lừng khừng đứng chờ.

T. chạy qua mở cửa cho Jackie. Hắn học cái kiểu cọ văn minh này từ lúc nào thế không biết. Lúc người đàn bà xoay người, đưa chân ra ngoài, tôi bắt gặp một khoảng thịt da trắng ngần. Tới bây giờ tôi mới nhận ra chiếc váy ngắn trên đầu gối mầu da bò Jackie mặc.

Tô phở nguội mau trước mặt tôi. Tôi đã cố lắng nghe tiếng nhạc vọng ra từ những chiếc loa treo ở một góc trần nhà. Người ca sĩ đang nỉ non về một tình yêu dang dở. Nhưng lời ca tình tứ không át được cái giọng ba người đàn bà ngồi ngay ở chiếc bàn trước mặt tôi.

Con mụ có giọng nói nặng nề (tôi không kể tên vùng đất ấy ra kẻo người ta lại bảo là tôi kỳ thị) như thể đang vừa nói vừa trệu trạo nhai miếng cháy cơm nguội. Con mụ kể chuyện người quen nào đó du lịch Việt Nam, ăn quà vặt, ngộ độc, ói mật xanh mật vàng.

“Ăn yếu vậy anh!” Jackie nói. Tôi bối rối cười trừ.

Bỏ dở tô phở, tôi gọi một phần bánh hỏi thịt nướng, đem về nhà. T. gật gù. Phải rồi, để tối khỏi mất công nấu cơm. Tôi lặng thinh.

Buổi tối, lúc T. lái xe đưa Jackie đi quán cà phê Việt Nam, hát ka-ra-ô-kê, tôi cầm bọc bánh hỏi thịt nướng, qua gõ cửa nhà cô ấy.

Cô ấy ngơ ngác nhìn bọc đồ ăn trên tay tôi. Thằng bé Timmy mắt nhắm mắt mở, dụi mặt vào lưng áo mẹ.

“Ngủ chưa?” Tôi hỏi nhỏ.

“Ngủ chi sớm dzậy!” Cô nói với một nụ cười. Bao giờ câu nói của cô ấy cũng đi chung với nụ cười.

Cô ấy đỡ bọc đồ ăn trên tay tôi. Những đầu ngón tay chạm vào da lưng bàn tay tôi, mềm mại. Cái mềm mại dịu dàng bò lan trên lớp da sần sùi lớp vẩy thời gian. (Ơi thời gian, gã phù thủy biến tôi thành con khủng long già cỗi!) cái mềm mại ấy chạy vòng quanh trên da, như con ốc sên bò quẩn trên phiến đá mỏng hòn non bộ.

“Mua chi hoài dzậy?”

Miệng trách móc nhưng mắt cười biết ơn. Tôi lặng thinh ngắm bờ vai tròn, hồn bập bềnh theo dòng tóc chảy xuôi.

Thằng bé đưa tay sờ vào bọc đồ ăn, hai mắt tròn nhìn tôi, “Mommy, Timmy đói bụng.”

Tiếng vọng cổ vọng ra từ phòng khách. Bài ca quá trời là quen thuộc. Chiều nay én liệng trời cao, mây đào gieo khắp nẻo quê hương mù xa diệu viễn, mẹ ơi xuân năm nay chắc con sẽ không dzìa. Tôi cố nán lại, nghe cho xong câu vọng cổ.

“Cảm ơn nghe.” Cô nói.

Tôi trả lời không có chi rồi quay lưng trở về, lòng hân hoan một câu hát quen.

“Khoan!” Giọng thảng thốt của cô kéo sựng bước chân tôi lại.

“Mặt sao bầm vậy?”

Tôi lấp lửng, “Không sao đâu.”

“Té nữa phải hôn?”

“Đâu có...”

“Lại quên uống thuốc nữa phải hôn?” Cô ấy nhìn tôi bằng ánh mắt trách móc.

“Đưa thuốc đây, mỗi ngày nhắc giùm cho!” Đó là chút an ủi hiếm hoi mà chứng bệnh tàn khốc ấy đem lại cho tôi.

T. và Jackie về lúc quá nửa đêm. Hai đứa nó bỏ quên chìa khóa cửa trong phòng ngủ. Báo hại tôi phải ra mở cửa cho hai đứa. Jackie nhìn tôi, cái nhìn dài thườn thượt.
 
Chắc hai đứa nó uống nhiều bia lắm bởi lúc đứng nép qua một bên cho hai đứa lách vào, tôi đã nghe bao tử mình quặn lên vì hơi thở nồng nặc của chúng nó. Rồi cả đêm tôi bị dựng đầu dậy bởi tiếng mở cửa phòng ngủ với tiếng đóng cửa và giật nước nhà cầu.
 
Chúng nó làm cái giống gì mà lục đục suốt đêm.
 
Đêm ấy và những đêm sau nữa, tôi thường giật mình thức dậy lúc một, hai giờ sáng và trằn trọc mãi tới khi mặt trời mọc.
 
Hoàng Chính
 
Trân trọng giới thiệu
Thư Tình Viết Muộn
Liên lạc: [email protected]
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.