Hôm nay,  

Cầu mưa ướt áo

07/12/202317:39:00(Xem: 3312)
Truyện

cau mua

Đã hơn cả tuần nay, chiều nào mây cũng giăng xám một góc trời. Mưa không lớn chỉ lất phất bay, đủ ướt phủ mặt đường. Những hình ảnh chập chùng, bao kỷ niệm hiện về lẫn lộn. Khi nhớ khi quên. Có lúc khuôn mặt rõ từng sợi chân mày, từng vết hằn môi ướt. Rồi có lúc chợt thoáng mất, hun hút như chưa lần gặp gỡ trong ký ức. Càng cố gắng bao nhiêu, trí nhớ càng nhạt nhòa tan biến. Đã hết tuổi đời, đã mòn năm tháng? Hay cũng chỉ là dòng trôi tự nhiên của thời gian xuyên qua một đời người thoáng chốc.
    Chừng như tin vui dần ít đi, thay vào đó là những chia xa không tránh khỏi. Điều gì đến phải đến, như bao nhiêu nối tiếp trong chuổi vô cùng của cuộc nhân sinh. Người viết thưa dần và người đọc cũng không còn nhiều nữa. Tay đã mỏi, mắt đã mờ. Khoảng cách thời gian chợt vời vợi, vô cùng. Nhưng khoảng cách không phải là thước đo của tình người. Lại càng không phải thước đo ký ức và dáng hình của kỷ niệm. Chừng như những ngày mưa trong tiềm thức đáng nhớ hơn bao ngày nắng đẹp. Có lẽ mưa luôn mang theo những tiếng động, những âm thanh khua vào nỗi nhớ. Có cơn mưa báo trước và có những cơn mưa bất chợt, tình cờ. Cuộc sống, phải chăng là sự kết hợp nhiệm mầu của những cơn mưa bất chợt, tình cờ không báo trước. Cho tôi và cả cho người...
 
***
                       
Nằm trong con hẻm trên đường Phan Đình Phùng, phía đối diện là chợ Vườn Chuối. Con ngõ vào thật hẹp, chỉ vừa đủ hai chiếc xe gắn máy nhường lách nhau để qua mặt. Tiếng lao xao vọng ra từ những căn nhà thấp chừng như đang chuẩn bị cho buổi ăn chiều. Như bao nhiêu khu lao động khác, càng đi sâu vào con hẻm thì mặt đường nhỏ hẹp hơn. Phía trước cửa nhà này có thể nhìn thấy sinh hoạt bên trong cửa nhà kia. Tôi nhìn lại số nhà ghi trong miếng giấy nhỏ lần nữa, đúng là con hẻm này nhưng vẫn chưa thấy. Con số nhà đến ba lần xuyệt, lại phải rẽ vào một con hẻm nhỏ khác. Cuối cùng tôi cũng đứng trước căn nhà đúng theo số ghi trong miếng giấy nhỏ. Chiếc cổng thấp bạc màu ngăn bên trong cánh cửa gỗ màu xanh khép hờ. Tôi gỏ mạnh vào cánh cửa gỗ hé mở màu xanh nhạt, loang vết nắng mưa. Có hẹn trước nên không phải đợi lâu,  Nhàn đã hiện ra với nụ cười làm sáng khung cửa hẹp. Trong chiếc áo cổ tròn màu xám viền cũ sờn bâu Nhàn có chút gượng ngùng mời tôi vào nhà. Căn nhà nhỏ đầy ấp, ngổn ngang với những chiếc thúng đựng từng gói bún, bánh canh, giò heo, rau thơm đủ loại... đầy cả một góc bàn.
    – Chắc là anh kiếm nhà Nhàn hết cả buổi?
    – Mờ mắt luôn, nhưng cũng chỉ mất hơn năm, mười phút thôi!
    Nhàn kéo chiếc ghế thấp, vừa cười nhẹ:
    – Anh ngồi tạm, nhà chật bề bộn quá...
    Khó có thể tưởng tượng đây là cuộc sống của Nhàn, Trần Thanh Nhàn cô sinh viên năm thứ ba, người đẹp của khoa sử địa sư phạm Sài Gòn. Trong ban tổ chức đêm văn nghệ liên hoan cuối năm, Nhàn phụ trách phần sắp xếp và điều khiển chương trình cho cả hai trường đại học sư phạm - khoa học Sài Gòn kết hợp. Biết mình đẹp, kiêu kỳ có chút lạnh lùng nên bề ngoài khó ai gần gũi và Nhàn cũng không muốn gần gũi ai! Suốt thời gian tập dợt, sắp đặt chương trình tôi cũng không mấy bận tâm đến cô gái đẹp khó ưa này. Vậy mà vài tuần lễ sau tôi và Nhàn lại có dịp gần, quen thân nhau. Có lẽ thấy bản mặt khờ khạo, biết thân biết phận của tôi nên Nhàn cho qua ải "trai gái" thường tình. Có vài lần tập trễ Nhàn "có giang" tôi đưa về. Cũng tiện đường, Nhàn ở Vườn Chuối tôi ở Bàn Cờ cùng con đường Phan Đình Phùng. Tôi và Nhàn quen nhau từ đó.
    Trong bạn bè thân quen, rất ít người được Nhàn cho đến nhà. Có lẽ vì mặc cảm? Có lẽ vì Nhàn chưa muốn để tình bạn đi xa hơn trong cuộc sống? Cũng có thể không có lý do gì, mà đó chỉ là Nhàn? Tôi không biết chắc và cũng chẳng bận tâm. Nhàn đã hẹn và cho tôi địa chỉ nhà nàng, để ghé đến hôm nay.
    – Anh giúp Nhàn một tay đi! Nhàn vừa nói vừa chỉ tay vào thúng giò thịt heo đầy ấp. Bước vào trong là chiếc tủ thờ với bức ảnh người sĩ quan có khuôn mặt cương nghị, tôi đoán đó là cha Nhàn. Đôi ba lần nàng nói đến cha, người sĩ quan binh chủng thiết giáp đã hy sinh hơn mười năm trước đây. Mẹ Nhàn ở vậy, nuôi dưỡng mấy chị em bằng quán bún rêu, bánh canh bên hông chợ Vườn Chuối, quận 3... Phía cuối căn nhà là khoảng sân hẹp với chiếc nồi lớn đang nấu lửa than. Buổi trưa trời nóng lại càng nóng thêm hừng hực. Tiếng nước sôi lớn vang lên từ hai chiếc nồi lớn, đầy lửa than. Tôi giúp Nhàn cho từng thúng thịt và giò heo vào nồi nước đang sôi. Như hai con người, như hai cuộc đời phải đốt quyện vào nhau để thành cuộc sống thật.
    – Nóng lắm, anh vào trong kia  cho mát, để em. Nhàn đẩy tôi vào phía trong hiên nhà. Khoảng sân hẹp như lò lửa. Đây là cuộc sống thật của Nhàn. Không trách gì thái độ thờ ơ lạnh nhạt của Nhàn đối với cuộc sống, tình đời chung quanh. Không ai chọn cho mình số phận, bởi số phận đã là mỗi phần đời dành sẵn cho ta?  Cứ vậy mà sống, mà nối kết những hoàn cảnh hết một kiếp người..? Đứng lặng nhìn Nhàn loay xoay với bếp than hồng rực lửa, tôi nghe lòng quặn thắt nỗi buồn thương.
    – Anh sao vậy? Tiếng của Nhàn khiến tôi giật mình, ý thức cảnh vật nhạt nhòa giữa buổi xế trưa.
    – Khói than vừa nóng vừa cay mắt... Đang ấp úng, thì vài ngón tay của nàng đã chùi dòng nước lưng tròng trong mắt tôi.  
    – Đàn ông con trai gì mà "mít ướt" quá! Giọng nói, hơi thở của Nhàn thật gần, thật gần đủ để tôi cảm nhận được bờ môi con gái thắm đậm quanh đây... Nụ hôn thoáng chốc, tình cờ. Tôi muốn nói với Nhàn điều gì đó, nhưng lại thôi. Có cần thiết hay không? Hay cũng chỉ là thứ ngôn ngữ dư thừa, bất lực trước những mảnh vỡ của đời sống? Dưng không tôi chợt thèm một cơn mưa. Trong nỗi thiết tha, ngần ngại tôi khẩn cầu trời đổ một cơn mưa. Cơn mưa thắm ướt mắt tôi những dòng hạt mặn. Cơn mưa thấm ướt áo em, thấm ướt tóc em cho dài nhung nhớ. Đâu đây có tiếng hát ai như ru khoảng không gian của tôi, của Nhàn:  

"Này em đã khóc trời mưa nín câm,
Còn gì nữa đâu sương mù đã lâu
Em đi về cầu mưa ướt áo
Đường phượng bay mù không lối vào, hàng cây lá xanh gần với nhau..." (1)
 
Khóa học chính trị của đại học sư phạm đã bắt đầu hai tuần, nhưng vẫn chưa thấy Nhàn tham dự. Theo thông báo trường, sinh viên không "đăng ký" khóa học này sẽ bị xóa tên trong danh sách đào tạo của trường. Rất nhiều sinh viên vắng mặt vì nhiều lý do khác nhau. Đã di tản ra khỏi Việt Nam, bỏ học trở  về quê sinh sống, gia đình không còn đủ điều kiện tiếp tục việc học, v.v... Không khí bát nháo, bẩn bựa tràn ngập trong mọi sinh hoạt tại các trường đại học Sài Gòn sau ngày 30 tháng 4, 1975. Chính quyền mới đổi tên Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh. Kể cả tên nhiều con đường quen thuộc cũng mang một tên mới, nhiều lúc thật xa lạ. Đường Phan Đình Phùng thuộc quận 3, nơi tôi ở trọ và nhà của Nhàn, nay là đường Nguyễn Đình Chiểu. Không đành lòng hơn nữa, tôi cố tình ghé lại nhà Nhàn trong con hẽm nhỏ. Vẫn chật hẹp, quanh co nhưng nay yên vắng hơn nhiều. Cánh cửa khép kín và không còn mùi bếp lửa, mùi thơm của bột gạo bay ra. Gõ cửa, là người đàn ông xa lạ trả lời. Hỏi nhanh, mới biết gia đình Nhàn đã dọn về quê ngoại ở Bến Tre. Chỉ biết có vậy... Số phận con người quá nhỏ nhoi với thời cuộc. Cuộc sống không còn có lựa chọn nào khác hơn là sự chấp nhận và phải sống. Nhiều ngày tôi bó gối trên căn gác chật hẹp, nghe "đạo ca" của Phạm Duy để buông thả, không nghĩ ngợi gì với chung quanh. Nhưng tất cả đều là tạm bợ. Cuộc sống thật đang từng giây từng phút xô đẩy con người vào vòng xoáy chung quanh. Những ngày trống rỗng này, tôi chợt nhớ Nhàn vô cùng... Buổi chiều cuối tháng Năm trời hanh nắng gắt rồi chợt ào cơn mưa bất chợt. Tôi nghe lòng thoáng buồn, nuối tiếc bâng quơ.       
 
***
 
Thời gian chảy "đá mòn sông núi lở", cuốn trôi bao số phận đời người. Kỷ niệm như những cụm lục bình trôi mênh mông trên dòng sông ký ức. Có cụm nở hoa, có cụm chỉ đơm chồi xanh bóng nước. Hoa lục bình màu tím, hoa kỷ niệm không sắc màu năm tháng. Đời sống lặng lẽ xuôi theo số phận đến cuối cuộc trăm năm. Hạnh phúc khổ đau, may mắn hay bất hạnh vẫn là hai mặt làm nên đời sống. Nhưng điều đáng sợ hơn mọi bất hạnh, khổ đau là sự hờ hững, dững dưng giữa cuộc hệ lụy đời thường. Kiếp người như dòng sông chảy xuôi, mãi mãi không bao giờ trở lại nơi xuất phát. Đôi khi tình yêu không là cuộc tình, mà chỉ là một dấu môi xưa... Những ngày cuối năm có nhiều bất chợt cơn mưa chiều. Những cơn mưa lạnh và buồn. Những cơn mưa bay qua cuộc đời, tình cờ không để lại nỗi niềm cho mùa mưa sắp tới. Không gian vận chuyển tuần hoàn, sẽ không có ý nghĩa gì nếu không có lòng người thắm đọng. Con hẽm nhỏ ngày xưa không còn nữa. Đã phôi phai với thời gian, với những dãy phố cao che khuất mặt người. Có lần tôi đã trở về, đứng tần ngần cố tìm quanh quẩn bóng dáng của người năm cũ. Cuộc sống vẫn cuộn trôi, dòng người vẫn còn đó. Chỉ có thời gian là biền biệt không về. Một lần đối mặt thân quen và cả đời không gặp lại. Thôi thì mỗi số phận con người đành gửi theo từng lựa chọn. Mà có lựa chọn nào mà không mất mát bao giờ? Để nhiều lúc hay cả một đời người ta không có lựa chọn nào, ngoài sự chấp nhập. Để sống, để xuôi hết một kiếp người. Một lời chưa kịp nói, xin mãi giữ lại cho kiếp mai này.
 
"Chỉ hai đứa mình thôi nhé
Đừng cho trăng nép sau hè
Chỉ hai đứa mình thôi nhé
Đừng cho hoa nắng phai màu
Hai đứa mến nhau
Mối tình tha thiết trao nhau
Hẹn đến ngày bạc mái đầu... "  (2) 
 

– Nguyễn Vĩnh Long

 

(1) Mưa Hồng – Trịnh Công Sơn

(2) Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé! – Anh Bằng & Lê Dinh

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.