Hôm nay,  

Chuyện tình buồn

28/03/202408:09:00(Xem: 3342)
Truyện

sad woman

Những chuyến xe ngập ngừng, chậm chạp lăn trên con đường gập ghềnh để chuyên chở đoàn người đi thăm cha, anh, em, con, chồng ở khắp nơi trong những trại tù, nơi mà lớp người mới gọi là "Trại Học Tập Cải Tạo" nghe ngược ngạo, chua chát nhiều đắng cay. Từ Quốc Lộ 1, phải đi khoảng chừng 2 cây số, trên một con đường mòn, xuyên qua rừng cây gỗ quý cẩm lai là đến trại tù cải tạo Hàm Tân. Xe dừng lại tại một điểm đã được quy định, mọi người xuống xe, ai nấy đều nhận lại hành lý rồi phải đi bộ thêm một quãng rất xa nữa mới gặp được thân nhân. Giọng oang oang, càm ràm của người lơ xe nhắc nhở mọi người đang còn ngồi lại trên xe chưa kịp bước rời khỏi chiếc xe đò làm Trâm giật mình vội vã lách rời khỏi chiếc xe, cùng theo đoàn người quảy gánh đi thẳng về những dãy nhà lá thật xa lờ mờ ở phía trước.
    Đôi chân nàng bước nhanh như những điệp khúc thăng trầm của cuộc đời, cõi lòng nặng trĩu nỗi lo âu ngại ngần, nghẹn lời khi phải nghĩ cách nói dối chồng, biết nói và kể lể gì đây khi đời mình đã trải qua một khúc rẽ quanh co, cũng chỉ vì quá lo cho chồng lại thương con, muốn cho chúng có một đời sống tốt và khỏi phải đương đầu với học đường "Học tài, thi lý lịch" như những năm qua. Trong lúc cha của chúng bị gông xiềng, mỗi lần khi biết tin được đi thăm nuôi người tù, mặc cho làn nước mắt nàng đã nhiều lần tuôn rơi, cạn khô, đầy lại vơi, xót lòng nghĩ đến tiền bạc dành dụm đã không còn nữa, thậm chí thùng gạo ở nhà đã gần nhẵn quẹn, việc buôn bán cò con lại bị bắt bớ thua lỗ, có hôm còn bị xét bắt hết cả vốn chứ tiếc chi đến đồng lời. Mẩu truyện ngắn của Khái Hưng chợt trở về với tâm trí nàng trong khoảnh khắc... Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái Bé!... Không!... Anh phải sống!
    Nhìn đàn con vô tội Trâm mềm lòng, nàng đã mạnh dạn quyết định hy sinh nốt cuộc đời còn lại của mình, một lần dấn thân như những dây leo tầm gửi đã cuốn chặt đời nàng, không lối thoát. Đâu thể ngờ được lần này thăm Dũng là lần cuối cùng, nàng sẽ cùng các con theo một người đăng ký đi tàu bán chính thức. Trâm thầm nghĩ sanh ly còn hơn tử biệt, như chị Thư ở xóm trong gần khu nhà nàng đã cùng năm đứa con uống thuốc chuột quyên sinh để tâm hồn khỏi bị dằn vặt suy nghĩ đến ngày được tin thăm nuôi chồng trong khi túi rỗng tếch, lại thêm cái bao tử dằn vặt từng ngày.
    Trước khi từ biệt người thân để đi vượt biên bán chính thức, Trâm đã trao gởi cho người anh họ một số tiền và vài khâu nhẫn vàng y, để cậy nhờ anh lo đi thăm nuôi người trong tù cải tạo;  Nhờ vậy mà Cha của bầy trẻ vẫn được tiếp tế lương thực mỗi khi có phép đi thăm nuôi.
    Lần đầu tiên gặp lại anh Hưng sau bao nhiêu năm xa cách Dũng mừng lắm, nhưng điểm chính yếu là nhận được những món thực phẩm, thuốc men mà chàng cần thiết và ưa thích nhất như:  Sữa hộp hiệu ông thọ, keo thịt ba rọi kho xả ớt, gói đường cục thốt nốt, keo nước mắm tóp mỡ hành, vài xâu lạp xưởng, bao thịt chà bông, vài gói mì ăn liền, gói thuốc đau bụng, thuốc đau đầu cảm cúm, thuốc sốt rét, thuốc bôi ghẻ ngứa và nhiều món lặt vặt khác nèn đầy cả cái bao nặng trĩu. Dũng bối rối, chợt nhớ ra điều gì hơi là lạ, trầm buồn hỏi anh Hưng.
    "Nhà em đau ốm sao vậy anh?"
    Anh Hưng chưa kịp chuẩn bị câu hỏi chất vấn ấy, tần ngần một chút rồi mới chậm rãi trả lời cho qua lệ.
    "Nghe nói cô ấy cùng với ba đứa nhỏ đi thăm dò tìm đường vượt biên nên mới nhờ tôi đi thăm chú đấy".
    Niềm nghi ngại vẩn vơ thoáng chốc chợt đến trong tâm hồn, Dũng khe khẽ hỏi:
    "Gia đình em làm gì còn tiền mà tìm đường đi vượt biên".
    Anh Hưng không cần phải suy nghĩ thêm chi cho đau lòng, phần thì anh cũng muốn kết thúc những vặn hỏi nên anh đã để dành câu trả lời đó lại cho Trâm.
    "Tôi chỉ biết có vậy thôi. Hay chú đợi lần sau cô ấy lên thăm, chú hỏi thì rõ hơn".
    Sự hững hờ của Trâm làm Dũng không khỏi ngờ vực, cảm nghiệm có điều gì chẳng lành, chàng thầm nghĩ có bao giờ Trâm giấu mình điều gì đâu, hay là... Đầu óc chàng phân vân nghi ngại muốn tìm ra câu giải đáp cho chính mình, bỗng có tiếng kẻng đánh dồn dập kêu vang dội tựa hồi chuông thúc giục muốn dồn cải tạo viên tập họp để trở lại nơi nhà tù của mình. Dũng vội vã chào người anh họ của vợ rồi hấp tấp đứng dậy theo người đang canh chừng mình cùng đi thẳng một lèo về phía những người đang xếp hàng mà lòng chưa dứt hoang mang se sắt, chớm thấy rạn nứt…
 
***
 
Cơn mưa đầu mùa rả rích ngoài hiên nhà nơi xứ người, vẫn rơi đều mỗi lúc thêm nặng hạt. Mưa như gột xoá hương nồng một thời yêu xưa khát khao nghe giá buốt tận đáy lòng nàng. Cuộc đời của mẹ con Trâm chẳng khác gì lục bình trôi theo dòng nước thủy triều mà tạo hoá đặt để. Dòng đời nghiệt ngã đã cuốn đi tất cả dấu yêu một thời xưa, chỉ còn kỷ niệm viễn ảnh nhạt nhoà xót thương ghép lại trong tim người, một lần quyết tâm để rồi nghìn trùng vấn vương cách xa. Sau mười hai năm trời Trâm và các con vẫn sống trong hoài mong mòn mỏi cùng với những ràng buộc tỵ hiềm của "Người Ơn", vì không được trọn vẹn niềm yêu, nên không khí trong nhà nóng lạnh bất thường;  Người ấy thầm hiểu rằng mình chỉ là diện thêm... ké, hay cũng là thảm trải cho người bước qua thôi, nên vẫn lặng thinh để mặc cho thực diện trôi dần theo thời gian. 
 
Cố nhân ơi có thấu chăng
Rằng ta đây đã phụ lòng người xưa

Bốn mẹ con Trâm và người ơn được gia đình người bảo trợ, bảo lãnh từ Kuala Lumpur Malaysia về cư ngụ ở Erie USA là một thành phố nhỏ, nơi mà những bậc cha mẹ rất muốn nuôi dạy con cái của mình lớn lên và trưởng thành ở đó. Bởi vì, theo thống kê thì mức học vấn của người dân Mỹ trưởng thành ở Erie thì cao hơn trung bình một chút. Phần đông người sống ở thành phố cho đến tỉnh nhỏ, ít nhất họ đều có văn bằng Bachelor’s Degree.
    Đời sống ở Erie rất là dễ chịu và thoải mái về vấn đề nhà cửa, những đồ đạc thiết dụng và phần thực phẩm cho đời sống hằng ngày thì giá cả nhẹ nhàng phải chăng, mọi người dân có thể lo toan được.
    Những khi rảnh rỗi, Trâm thường hay dẫn các con đến Square Park là old town của Thành Phố Erie để xem những màn trình diễn thật sống động và nghe nhạc hoà tấu miễn phí ngoài trời, cho vơi đi bao nỗi buồn sầu lắng đọng trong lòng nàng từ dạo xa người… và xa Quê Hương Việt Nam thân yêu.
    Hằng năm, cứ đến tháng cuối năm, vào mỗi buổi chiều ngày thứ năm từ bốn giờ cho tới sáu giờ, tại bờ hồ Erie, có nhóm tài tử hoà tấu và một số Giáo Sư cùng các sinh viên nghành âm nhạc nghệ thuật của Đại Học Gannon thuộc Tiểu Bang Pennsylvania. Họ tụ họp đến trình diễn với những nhạc cụ như Kèn Tây, Vĩ Cầm, Đàn Accordion, Harp và đánh trống giúp vui cho những người dạo chơi ở Erie Square thưởng thức trong ba tháng hè.
    Họ hoà tấu những bản nhạc cổ điển của Chopin, Bethevon, Bach, Mozart, Tchaikovsky và Haydn… là những dòng nhạc tình cảm lãng mạn vượt thời gian và không gian. Thật khó mà giải thích được, vì sao nó đã cuốn hút Trâm thả hồn theo tiếng nhạc du dương trầm bổng, mà tạm quên đi bao nỗi đắng cay thực trạng đang dày xéo tâm hồn nàng.
 
***

Được trả tự do ra về vào một chiều thu phai với buồn sầu hiu hắt, Dạ Khúc "Serenade" quen xưa vang vọng lại trong hồn chàng, bây giờ Dũng mới thấy thấm thía.
 
Cho tình cứ úa phai màu
Cho người cứ mãi phụ nhau
 
Chàng đến thăm những người bạn tù để tìm an ủi và muốn xin ở tạm trú một thời gian đầu, nhưng thấy không ổn vì mỗi người có cảnh khổ khác nhau. Có gia đình bạn đói meo, cả nhà chỉ có vài củ khoai để chia nhau mỗi ngày, có bạn thì cũng chẳng hơn gì chàng. Vợ anh ta bây giờ trở thành mệnh phụ lớn lắm!! Nghẹn ngào cười ra nước mắt. Không còn đường nào hơn, Dũng đã đánh bạo tìm đến nhà của anh Hưng cậy nhờ sự giúp đỡ, anh Hưng vui vẻ nhận lời giúp thật chu đáo tận tình, ngoài những bữa cơm đạm bạc cùng với gia đình của anh, anh Hưng còn đưa chút ít tiền để chàng tiêu vặt;  Người mới ra khỏi ngục tù, trong lòng rất đơn giản như ăn những hạt bo bo với muối hoặc khoai mì luộc mới tự đào về, phơi khô cất giấu đi để dành ăn hoài cả năm vẫn không dám chê. Anh Hưng không dám thổ lộ đó là tiền của Trâm gởi về để nhờ anh lo cho Dũng, sợ lỡ chàng biết được từ chối lại hỏng việc.
 
Khi người tù trở lại
Nhìn mái ấm nhà xưa
Những mất mát đớn đau
Cảnh cũ vẫn còn đây
Người xưa nào tìm thấy
Trẻ thơ giờ ở đâu?

Trong đôi tuyến trận chiến, niềm thất bại 
Tình trường, chiến trường!! Ngọt ngào... đắng cay
Xưa kiêu hùng trong chiến trận dọc ngang
Nay buông xuôi niềm hoài vọng mong manh

Một điều không thể quên khi vô tình bất chợt nhìn thấy khung ảnh treo trong phòng ảnh gia tộc của gia đình anh Hưng. Một tấm ảnh Trâm chụp chung với Dũng vào ngày lễ ra trường của chàng, theo truyền thống Trường Nguyên Thủ Võ Bị Quốc Gia SVSQ Đà Lạt hàng năm mãn khoá học vào ngày Lễ Giáng Sinh, sau khi đã được rèn luyện trong bốn năm dài. Còn nhớ ngày ấy, Mẹ đã đem sính lễ trầu cau đến gặp Cha Mẹ Trâm để dạm hỏi cho chàng và cũng để xin phép cho nàng cùng đi với gia đình chàng dự ngày lễ ra trường đông vui hiếm quý ấy. Bức ảnh này đánh dấu nhiều kỷ niệm đẹp khó quên, nó đã được treo ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách nhà chàng khi xưa, bây giờ mọi vật đã đổi thay theo nghịch cảnh của đời người.
    Cơ cực thiếu thốn nhiều năm đã quen, nay được ăn không ngồi rồi, sao thấy ngại ngần quá!  Vào một buổi cơm tối, Dũng đã nói khó với anh chị Hưng mượn một ít tiền làm vốn để theo một người bạn đã cùng ở trong tù cải tạo, đi bán vé số và thuốc lá lẻ kiếm sống qua ngày;  Chàng hứa sẽ hoàn vốn trả lại anh chị Hưng. Tuy trong lòng không mấy ưng ý lắm, anh Hưng vẫn vui vẻ chấp thuận, nhưng thầm trộm nghĩ: "Cần phải cho chú học bài học mới, đắt giá như chúng tôi đã trải qua".
    Ở xã hội này cần gì phải cầu, mánh mung gạt gẫm, chăng dây kết rào để bắt bớ xảy ra thường xuyên như cơm bữa, hết vốn như trở bàn tay. Đó là chưa kể nạn lừa đảo để cướp giật trắng trợn vào ban ngày ở chỗ đông người nữa; Một đứa đâm xẹp bánh xe ở phía sau, lại còn dám lớn tiếng cho biết là "Bánh xe đạp sau của chị bị xẹp rồi", mình lo quay đầu lại phía sau để xem, lúc ấy đã có sẵn mấy đứa đồng bọn đứng ở phía trước giựt giỏ xách treo ở ghi đông xe đạp, đồ để ở giỏ xe hoặc nón đang đội ở trên đầu, v.v… thoáng chốc đã chuyền tay nhau cao bay xa chạy mất dạng, có khi chúng còn hùa nhau để cướp luôn xe đạp nữa đấy. Lại còn có những băng tuổi trung niên ngầu hơn, cướp giựt vàng vòng nữ trang đồng hồ, cũng may dạo này con buôn không thâu vòng ngọc thạch đã bị bể vào, nên các bà đeo vòng ngọc thoát nạn. Giựt được thứ nào bán cũng có tiền, chẳng phải nhọc tâm đi xa xôi đâu cả, chỉ cần chạy ù qua đường kế bên là bán được ngay. Người buôn bán ở chợ trời mua bán tạp lục, mua ở đó lại bán ngay tại đấy không chê món nào hết.  Hàng giả bán với giá như đồ thiệt, miễn sao họ kiếm được nhiều lợi nhuận, chỉ tội nghiệp cho khách tiêu dùng bị lãnh hết hậu quả gian xảo lừa gạt của những con buôn thất đức.
    Cơn sốt rét nóng lạnh hoành hành toàn thân Dũng còn có thể chịu đựng, sự hụt hẫng đau đớn chất ngất trong tâm hồn chàng khó chữa lành. Mỗi ngày Dũng lần bước qua khắp đường phố lớn của Thành Phố SàiGòn ghé chào mời khách thập phương mua giúp vé số và thuốc lá lẻ để kiếm sống chờ thời, trong khi chờ đợi đi Hoa Kỳ theo diện Hát Ô và đoàn tụ với các con thân yêu của mình. Hôm nọ, Dũng ghé mua thuốc sốt rét ở đường Nguyễn Huệ, trong lúc chờ đợi nhận thuốc, qua cuộc đối thoại trao đổi qua lại, chị bán thuốc Tây "chui" nhận biết ra chị đang tiếp chuyện với một người sắp xuất ngoại đơn độc diện Hát Ô, "Dược Sỹ De La Hiên không bằng cấp" đã kê toa thuốc cho chàng không bỏ lỡ cơ hội tỏ bày thẳng vào đề luôn.
    "Anh cho mẹ con tôi ghép hộ theo anh xuất ngoại được không?"
    Dũng bỡ ngỡ chưa hiểu rõ điều chị ta muốn nhờ nơi mình. Nên chị lại dịu dàng, nhỏ nhẹ tiếp lời cho rõ hơn.
    "Anh cho em lập hôn thú làm vợ thiệt theo anh đi cũng được, nếu không thì làm vợ giả em sẽ gởi anh một số tiền hay vàng, như vậy là công bằng. Nếu anh bằng lòng giúp, tối nay mời anh ghé nhà em..mình sẽ bàn thêm tiếp nhé!"
    Gương mặt người đàn bà rạng rỡ, giọng ngọt ngào khẩn khoản chứa ẩn lời mời gọi như muốn thu cuốn người đối diện. Bây giờ chàng mới hiểu được sự trao đổi, mánh mung của dân tình, khó khăn lắm mới thốt lên lời từ chối với chị bán thuốc Tây. Cũng tội nghiệp chị, song lòng chàng đang rối bời, phải tránh hệ lụy níu kéo để rời khỏi đất nước này được yên thân thanh thản, không muốn quàng vào người sự trần trược trong những ngày cuối còn tạm trú nơi đây.
    Từ ngày Dũng bị chận bắt giam tạm ở Quận 1 từ sáng đến chiều mới được thả, lại còn bị tịch thu hết khay thuốc lá đủ loại và cả chiếc túi sách bằng vải đựng vé số đeo ở trên vai. Tuy mất sạch vốn, vẫn còn may là chưa bị tống giam luôn vào tù. Đã nhìn thấy sự bắt bớ này quen thường ngày, hôm nay mới đến hạn xui của mình, mặc dầu đã nhanh chân chạy nhưng không thoát nạn, một lần tởn cho đến già. Sau lần xui xẻo này, chàng lại cảm thấy tâm mình an bình hơn trước, trong sự xui lại có cái may, một nghịch lý đổi thay khó đoán trước được trong tâm hồn của chàng.
    Trâm nào dám so bì với những vị anh hùng xưa bất khuất, lòng nàng chỉ đơn thuần với việc nho nhỏ mà mình có thể thực hiện được "Mạnh thì dùng sức, yếu dùng mưu!!"  Nàng chẳng dám xin nơi Dũng điều gì, chỉ mong mỏi một ngày nào đó, việc làm của mình sẽ được chứng giám những cất giấu trong tim vẫn còn là niềm yêu thiết tha thuở ban đầu. Sự sống còn của Dũng và sự thành công trong đời sống của các con cùng việc trùng phùng với cha chúng là hạnh phúc của chính nàng. Mặc dầu đã có đôi lần chàng ngỏ lời mong muốn nối kết lại tình xưa, hãy quên đi quá khứ u buồn. Đó chỉ là những áng mây huyền mộng mỵ trôi thoáng qua, nhưng nàng đã khước từ tấm thiện tình ấy làm Dũng bâng khuâng ngỡ ngàng .
    Kỷ niệm đưa Trâm về ngày tháng cũ, cung đàn xưa lỗi nhịp, nàng không còn xứng đáng với lòng tin yêu để níu lại những gì đã mất mát, thay màu "Nghĩa tào khang". Nối lại sẽ phải chịu đựng dày vò đọa đày suốt khoảng đời còn lại, có lúc vui buồn lẫn lộn khó ai hay, một lần xa chân là chấp nhận nỗi xót xa nuối tiếc cho cuộc tình buồn dở dang.
 
Hai cuộc tình buồn
Hai lần dang dở
Đôi đời tao ngộ
Đôi lần chia xa
Muôn kiếp phôi pha
Muôn đời ngỡ ngàng
Như loài hoa vỡ
Như hạt sương mai
Tạ ơn cùng người 
Tạ tình cùng ai

– Phạm Thị Kim Dung

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.