Hôm nay,  

Nhạc Lê Uyên Phương: Tình yêu hạnh phúc, đam mê, khổ đau

30/05/202500:00:00(Xem: 1428)
LE UYEN COPY COPY

Cặp tình nhân Lê Uyên & Phương trong một buổi nhạc của Asia.



Nhạc Lê Uyên Phương là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc Việt Nam xuất hiện từ cuối thập niên 1960s. Lúc đó là thời của quê nhà chinh chiến. Nhạc của Phương là lời ca ngợi tình yêu, như một cách kêu gọi hòa bình. Lúc đó là thời của những nỗi lo lắng về sống và chết nơi quê nhà chỗ nào cũng đạn bom, nhưng Phương lại hát lên lời ca ngợi hạnh phúc đôi lứa giữa một khung trời "Chờ trăng lên, nghe sao thì thầm"... Tình yêu của Lê Uyên Phương giữa bối cảnh đó tự thân đã là một triết lý của hiện sinh, rằng cuộc sống này là một hạnh phúc có thực, xa lìa mọi ý thức hệ.

Do vậy, nhạc Lê Uyên Phương gắn liền với tuổi trẻ, và không trừu tượng. Trong khi chúng ta nghe trên đài phát thanh về lời kêu gọi như hãy "khỏe vì nước kiến thiết quốc gia" hay "lời sông núi bừng vang bốn phương trời" thì nhạc Lê Uyên Phương là cái đời thực của cặp tình nhân yêu nhau, như lời hẹn hò rằng hãy "Chờ trăng lên, nghe sao thì thầm" với lời mời gọi "Hãy ngồi xuống đây. Xa cơn buồn phiền. Dẫu biết chia phôi"...

Nhạc của Lê Uyên Phương là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc Việt Nam, với phong cách lãng mạn và mang chiều sâu của những chất vấn rất mực triết lý hiện sinh. Cùng với giọng hát Lê Uyên, Phương đã tạo nên một không gian âm nhạc rất riêng—mãnh liệt, mê đắm, đôi khi u hoài—tựa như lời thì thầm giữa hai kẻ yêu nhau trong thời chiến. Âm nhạc của anh không chỉ phản ánh tâm tư cá nhân mà còn mở ra lối đi rất riêng cho dòng nhạc tình, ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế hệ nghệ sĩ sau này.

Nhạc sĩ Lê Uyên Phương sinh ngày 2/2/1941. Và ra đi ngày 29/6/1999, tức là ở tuổi 58, còn có thể gọi là hưởng dương. Không ngờ đời người một thiên tài như anh lại ngắn như thế. Lê Uyên Phương là một trong những nhạc sĩ lớn của dòng nhạc tại Sài Gòn, miền Nam Việt Nam trước 1975. Lê Uyên Phương tên thật là Lê Minh Lập, sinh tại Đà Lạt. Trong thời kỳ chiến tranh, giấy tờ bị thất lạc, trong hai lần làm lại giấy khai sinh, tên của anh bị nhân viên giấy tờ nhầm thành Lê Minh Lộc rồi Lê Văn Lộc. Từ đó anh giữ cái tên Lê Văn Lộc.

Cha của Lê Uyên Phương vốn họ Phan, nhưng vì cuộc cách mạng của Phan Bội Châu nên phải đổi thành họ Lê. Mẹ của Lê Uyên Phương là Công Tôn Nữ Phương Nhi, anh lấy chữ Phương trong tên của mẹ làm tên cho mình. Cùng với chữ Uyên, tên người bạn gái đầu tiên, anh ghép thành nghệ danh Lê Uyên Phương.

Lê Uyên Phương gặp Lâm Phúc Anh ở Đà Lạt, (hai người ở sát nhà nhau, số 18 và 22 Võ Tánh, TP.Đà Lạt), năm 1968 hai người thành hôn. Họ trở thành đôi tình nhân song ca nổi tiếng. Lê Uyên là nghệ danh do Lê Uyên Phương đặt cho. Anh tâm sự, lúc hai người từ Đà Lạt xuống Sài Gòn biểu diễn, có nhiều phóng viên hỏi, Lê Uyên Phương là ai? Lúc đó, anh buộc miệng chỉ cô gái (Lê Uyên) nói, đây là Lê Uyên. Còn tôi là Phương. Từ đó Lâm Phúc Anh chết luôn với nghệ danh Lê Uyên. Lúc hai người song ca được gọi Lê Uyên và Phương. Trước lúc gặp Lâm Phúc Anh, Lê Uyên Phương đã sáng tác ca khúc và ký với tên này.

Có thể nào nói chỉ một ý về nhạc Lê Uyên Phương? Có lẽ, có thể tóm gọn là: yêu nhau giữa vô thường. Bởi vì yêu nhau trong thời bốn phương biến động, nên cứ sợ rằng những khoảnh khắc của hạnh phúc, đam mê, khổ đau sẽ biến đi, sẽ nhạt phai....

Nhạc Lê Uyên Phương là tiếng nói của một thời tình yêu cháy bỏng giữa đam mê và khổ đau, một hơi thở gấp gáp của tuổi trẻ trong cõi vô thường. Chất nhạc của anh mang màu sắc đầy suy tư, với những giai điệu liêu trai, gợi cảm, đi sâu vào triết lý tình yêu và sự hữu hạn của đời người. Những bài hát như Dạ khúc cho tình nhân, Cho lần cuối, Vũng lầy của chúng ta đều mang nét riêng biệt với lối hòa âm đầy chất thơ, tự sự, như những lời tình tự giữa đôi lứa trong đêm sâu. Chính sự độc đáo này đã khiến nhạc Lê Uyên Phương trở thành dấu ấn khó phai.

Lê Uyên Phương khởi sự viết nhạc từ 1960 với “Buồn đến bao giờ” viết tại Pleiku. Những năm đầu thập kỷ 1970, từ Đà Lạt vào Sài Gòn, Lê Uyên và Phương đã đem một luồng gió mới đến với tân nhạc. Trong những năm khốc liệt nhất của cuộc Chiến tranh Việt Nam, Lê Uyên và Phương, với những ca khúc nồng nàn, khắc khoải đôi khi bàng bạc, triết lý đã được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt. Lê Uyên Phương đã viết nhiều nhạc phẩm nổi tiếng như: Bài ca hạnh ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta…

Năm 1979, hai vợ chồng Lê Uyên Phương rời khỏi Việt Nam và định cư tại nam California, Hoa Kỳ. Họ có hai con gái là Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My. Khoảng thời gian từ 1984 – 1985 Lê Uyên bị tai nạn rất nặng (bị lạc đạn của hai băng đảng bắn nhau), sau đó, họ đã ngừng biểu diễn trên các sân khấu ở hải ngoại cho đến năm 1990 thì xuất hiện trở lại. Theo lời Lê Uyên, khoảng thời gian sau tai nạn đó, họ muốn lặng yên sắp xếp lại cuộc sống chứ không phải chia tay như nhiều lời đồn thổi. “Chúng tôi chưa bao giờ chia tay dù chỉ trong ý nghĩ. Bởi rất khó khăn chúng tôi mới đến được với nhau”. Lê Uyên cũng thừa nhận họ đến với nhau như một tất mệnh! Hầu hết các ca khúc của Phương đều tặng Lê Uyên.

Trong một ca khúc của Lê Uyên Phương đều mang cảm thức hạnh phúc và chia lìa. Bởi theo Lê Uyên Phương, tình yêu của một chàng trai 27-28 tuổi lại mang trong mình căn bệnh quái ác không biết ra đi lúc nào, với cô gái phơi phới mới lớn như Lâm Phúc Anh, đối với anh là quá lớn, “cho tôi yêu em nồng nàn, cho tôi yêu em nồng nàn, dù biết yêu tình yêu muộn màng…” Anh mất ngày 29 tháng 6/1999 tại bệnh viện UCI vì bệnh ung thư phổi.

Trong bài viết nhan đề “16 Năm – Lê Uyên Phương…” phóng viên Cát Linh của Đài RFA nhận định về Lê Uyên Phương: “…Nhạc của Lê Uyên Phương là những bản tình ca mang hơi thở lành lạnh của Đà Lạt, có vị cay cay của khói thuốc, có cả sự va chạm trần truội mang đầy giới tính bản năng của loài người… Nhạc của Phương không phải là những bản tình ca uỷ mị trừu tượng. Càng không mang vẻ đẹp của thiên tình sử trong đêm trăng của Romeo và Juilet. Cũng không cao sang trừu tượng như nhạc Phạm Duy. Ca từ trong nhạc của ông khi trần trụi, khi mềm mại, khi nóng bỏng như tiếng gào từ đồng vọng khét mùi khói lửa chiến tranh. Lê Uyên Phương viết nhạc từ chính cuộc sống và tình yêu của mình. Thời khắc khốc liệt nhất của giai đoạn đó đã làm cho lời nhạc của ông như lời trăn trối nhẹ nhàng, bình tĩnh, kêu gọi sống trọn vẹn ngày hôm nay vì không biết ngày mai sẽ ra sao.”

Trong mục Sổ Tay của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, với bài nhan đề “7-1999 – Vĩnh biệt Lê Uyên Phương” có một vài nhận xét như sau: “…Tôi yêu âm nhạc của Lê Uyên Phương, tôi yêu tiếng hát cũa hai bạn, tiếng hát khêu gợi làm sao, tiếng hát đi qua một trái tim nóng bỏng và đã thổi cái hơi nóng tình yêu nồng nàn qua trái tim người nghe, bắt họ phải nhận ra rằng đó mới là tình yêu đích thật. Bao giờ cũng vậy, mỗi khi nghe nhạc Lê Uyên Phương tôi đều nhìn thấy lại Đà Lạt, một Đà Lạt đã làm tôi trở thành một người khác với con người thời niên thiếu của tôi. Và tôi nhận ra mình ngu ngốc và rụt rè biết bao trước một Lê Uyên Phương chân thật và dũng cảm.”

Nhà phê bình Nguyễn Lê Phan trong bài viết nhan đề “Lê Uyên Và Phương Với Những Bài Tình Ca Bất Hủ” trên Việt Báo ngày 3/7/2003 trích như sau: “Mỗi ca khúc của Phương là một dấu ấn trên đời sống và trên tình yêu. Mỗi câu hát của Uyên là mỗi hơi thở đậm đà cho đời sống và cho tình yêu đó. Hình ảnh của giảng đường B thuộc trường Khoa Học Saigon của những năm 70 bỗng hiện về rõ từng nét trong trí nhớ của tôi khi vừa nghe ca khúc đầu tiên trong cuốn băng mới phát hành của LU&P, cuốn Khi loài thú xa nhau, sự khác biệt giữa khoảng cách của gần 30 năm, lạ lùng thay lại là giọng hát của họ, nếu ngày xưa là sự trong sáng, nhiệt tình thì giờ đây là sự đậm đà, đầy nội lực và tiềm tàng một khả năng thuyết phục lớn, nếu dùng chữ nôm na, thì đó là sự chín mùi trong cung cách đặc biệt mà không một người ca sĩ nào có được, anh không chú trọng đến làn hơi mà chỉ thể hiện những cảm xúc tự nhiên như khi anh đang viết ca khúc mình đang hát, vì thế đối với Phương, người thưởng ngoạn luôn phải nhìn anh là một nhạc sĩ sáng tác hơn là một ca sĩ, ngay cả lúc anh đang trình diễn trên sân khấu và đó cũng là điểm hết sức độc đáo của cặp nghệ sĩ này.”

Trong bài viết nhan đề “Chiều Nhạc Lê Uyên: Sài Gòn: Cà Phê, Sân Trường Thời 1970s,” nhà báo Đoàn Hưng nhận định:

“…Lê Uyên Phương sống và hát với tâm trạng của một cặp tình nhân mà “…ngày mai ta không còn thấy nhau…”. Tâm trạng đó không phải là tâm trạng chung của tuổi trẻ Việt Nam trong thập niên 70 hay sao? Những cặp tình nhân yêu nhau trong thời chinh chiến. Những người vợ mới cưới của những người lính Cộng Hòa. Những chàng thanh niên rời bỏ mái trường, bạn bè, người yêu để đi ra chiến trường. Trong một tâm trạng như vậy, hỏi sao mà tuổi trẻ đã hát say sưa: “…cho tôi yêu em nồng nàn, dù biết yêu tình yêu muộn màng…”

Nhạc của Lê Uyên Phương là nhạc của sân trường. Bởi vì đôi song ca này đã thành danh từ những sân khấu sân trường đại học, từ Đà Lạt đến Sài Gòn. Nhớ lại buổi trình diễn đầu tiên của Lê Uyên Phương tại Viện Đại Học Đà Lạt. Khi chương trình sắp bắt đầu, thì dàn âm thanh bị trục trặc, không biết đến lúc nào thì mới sửa chữa xong. Sinh viên đã đến đầy khán phòng. Lê Uyên Phương lúc đó đã quyết định hát không cần micro, dàn âm thanh. Chỉ với một cây đàn guitar và một đôi tình nhân. Hát bằng con tim, hát bằng hơi thở. Khoảng 18 bài hát đã được trình diễn như vậy, với sự hưởng ứng của khán giả cũng bằng con tim, bằng hơi thở. Huyền thoại Lê Uyên Phương đã bắt đầu như vậy. Để rồi sau đó, tour lưu diễn đầu tiên ở Sài Gòn liên tiếp trong 19 ngày, cũng tại các sân trường đại học, cũng với một cách trình diễn như vậy, đã chinh phục trái tim của hàng trăm ngàn khán giả trẻ đang yêu, đang khắc khoải vì sự mong manh của tình yêu.”

Như thế đó, nhạc sĩ Lê Uyên Phương đã xuất hiện như thế, và các âm thanh độc đáo của anh đã ở lại cõi này, để trở thành chứng tích cho các cặp tình nhân…

Nhà thơ Phi Lộc, thuộc thế hệ rất trẻ, đã bày tỏ lòng say mê nhạc Lê Uyên Phương qua bài thơ "Biết Ơn Anh" với ghi chú là: Thương kính tặng nhạc sĩ Lê Uyên Phương... Bài thơ trích lời ca từ những sáng tác của nhạc sĩ Lê Uyên Phương: Buồn Đến Bao Giờ, Cho Lần Cuối, Nỗi Buồn Dâng Hiến, Dạ Khúc Cho Tình Nhân, Có Được Cuộc Đời. Các dấu hoa thị là trích lời Lê Uyên Phương. Bài thơ như sau:

Biết ơn anh, trộm nhìn qua khe cửa
Nghe cuộc đời là biển sóng vi vu
Biết ơn anh, "buồn đến bao giờ"*
"Cho lần cuối"* không là lời cách biệt
Biết ơn anh, một "nỗi buồn dâng hiến"*
Vạn nỗi sầu bỗng hoá đá xanh tươi
Biết ơn anh, "ngày em thắp sao trời"*
"Đời sỏi đá, biết mình si mê"* vô ngại
Biết ơn anh, từng lời ca ý nhạc
Tặng hết "cuộc đời mưa nắng đổi thay"*
Biết ơn anh, qua trùng khơi bão nổi
Sống trọn "cuộc đời bỡ ngỡ như quên"*
---- Phi Lộc
(California, ngày 24 tháng 5 năm 2025)

Vào cuối tháng 6 này sẽ là Chương trình “Có Nhau Trong Đời” -  tưởng niệm nhạc sĩ Lê Uyên Phương tại Coffee Factory, đúng 26 năm ngày anh từ trần 29/6/1999. Đêm nhạc sẽ được tổ chức vào ngày 29/6/2025, lúc 7 giờ chiều. Danh ca Lê Uyên sẽ tâm tình và trình bày 14 tình khúc Lê Uyên Phương với tiếng đàn của Đình Chương đến từ Oklahoma.  

***

LE UYEN PHUONG trang nhất

CÓ NHAU TRONG ĐỜI:
7 GIỜ TỐI CHỦ NHẬT 29 THÁNG 6 NĂM 2025
tại Coffee Factory:
15582 Brookhurst St.
Westminster, CA 92683

Vé bảo trợ $150 - Vé VIP $100 - Vé đồng hạng $80. Để đặt vé và bảo trợ cho chương trình, vui lòng nhắn tin ban tổ chức 714-725-5445. Ban tổ chức chân thành cảm ơn Coffee Factory hỗ trợ Lê Uyên thực hiện chương trình tưởng niệm này.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một tác phẩm Nghệ thuật Khái niệm gồm một quả chuối đơn giản, được dán bằng băng keo lên tường, đã được bán với giá 6,2 triệu đô-la tại một cuộc đấu giá ở New York vào thứ Tư, 20 tháng 11 năm 2024. Sự kiện này đã gây xôn xao không ít chẳng những trong thế giới nghệ thuật mà cả dư luận công chúng bên ngoài. Tác phẩm với nhan đề Comedian/ Diễn viên hài, của nghệ sĩ người Ý Maurizio Cattelan, đã trở thành một hiện tượng khi ra mắt vào năm 2019 tại Art Basel Miami Beach. Những người tham dự lễ hội nghệ thuật này cố gắng tìm hiểu xem liệu một quả chuối màu vàng đã chín có những đốm đen được dán trên bức tường trắng bằng băng keo bạc loại dán thùng gửi hàng là một trò đùa hay là lời bình luận đầy thách thức láo xược về các tiêu chuẩn đáng ngờ trong giới sưu tập nghệ thuật. Có lúc, một nghệ sĩ khác đã lấy quả chuối ra khỏi bức tường và điềm nhiên bóc vỏ ra ăn. Tác phẩm này thu hút quá nhiều sự chú ý đến mức ban tổ chức phải lấy nó xuống cất đi.
Ngày Lễ Tạ Ơn ở Mỹ (Thanksgiving Day, ngày Thứ Năm trong tuần lễ thứ tư của tháng 11 hàng năm) được cho là khởi đầu vào năm 1621 khi những người di cư đầu tiên từ Anh Quốc đến Bắc Mỹ tạ ơn và ăn mừng với người Mỹ Da Đỏ bản xứ về một vụ mùa màng được thu hoạch khấm khá. Đây cũng là dịp để chúng ta nghĩ đến và đền đáp phần nào những ơn nghĩa mà mình đã nhận được trong cuộc đời này. Trong bài thơ “Ta Về” của nhà thơ Tô Thùy Yên viết khi ra tù cộng sản sau cuộc đổi đời vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, có câu thơ mà tôi rất thích: “Cảm ơn hoa đã vì ta nở.” Hoa nở rồi hoa tàn là chuyện rất bình thường theo luật tắc sinh trụ hoại diệt của vạn vật, như nhà Phật đã nói. Hoa có biết nó nở vì ai không? Làm sao chúng ta biết được hoa nở là vì chúng ta? Nhưng nếu không có hoa nở thì làm sao nhà thơ họ Tô kia có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp mỹ miều của thiên nhiên! Vì vậy mà khi nhìn đóa hoa nở nhà thơ Tô Thùy Yên đã nói lời cảm ơn vì cảm nhận rằng hoa đã vì ông nở.
Trong thế hệ ca nhạc sĩ trẻ của nền âm nhạc Sài Gòn trước 1975, cặp uyên ương Lê Uyên - Phương có một chỗ đứng đặc biệt, độc nhất. Sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Phương kéo dài từ đầu thập niên 1970s ở Miền Nam sang đến tận Hoa Kỳ sau 1975, cho đến khi ông mất vào năm 1999. Nhiều ca khúc Lê Uyên Phương cho đến nay vẫn chưa được chính thức phổ biến, phát hành. Để tưởng nhớ 25 năm ngày mất của người nhạc sĩ tài hoa, ca sĩ Lê Uyên sẽ tổ chức đêm nhạc chủ đề “Lê Uyên Phương 25 Năm Cuộc Đời– Tình Yêu – Âm Nhạc” tại Saigon Grand Center thành phố Fountain Valley vào ngày 7 tháng 12 2024.
Nhà thơ Kiên Giang nổi tiếng trên thi đàn miền Nam từ những năm 1955, 1956 với bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím” (được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc rất nổi tiếng)
Bài thơ này đăng trên Việt Báo vào ngày 10 tháng 8 2024. Người dịch nói rằng “…Bài này hợp với tinh thần Phật Giáo…” Tác giả Henry Wadsworth Longfellow là một nhà thơ nổi tiếng vào bậc nhất ở Mỹ trong thế kỷ 19. Trong tiểu sử không thấy nhắc ông có nghiên cứu về Phật Giáo. Có thể giải thích rằng những gì thuộc về chân lý, sự thật thì sẽ mãi mãi tồn tại, bất kể Đức Phật có thuyết giảng hay không.
VFF đang cùng cộng đồng hướng đến một sự kiện trọng đại: kỷ niệm 50 năm tị nạn kể từ biến cố 30-04-1975. Không phải tình cờ khi nhiều phim đoạt giải năm nay có chủ đề liên quan đến sự hòa giải giữa các thế hệ sau nửa thế kỷ ly hương.
Năm 1816, khi nhà phát minh người Pháp, Joseph Nicephore Niepce thành công chế tạo ra chiếc máy ảnh bằng gỗ có gắn thấu kính, cũng là lúc nghề vẽ tranh truyền thần của những họa sĩ thời đó bắt đầu gặp nguy hiểm. Đến khi công nghệ chụp ảnh hoàn hảo hơn ra đời vào khoảng 1839, thì những người vẽ tranh chân dung dần dần… thất nghiệp.
Tuy than thở như vậy nhưng Nguyễn Vỹ theo cái nghiệp trong suốt bốn thập niên. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở quê, lên trung học Pháp-Việt ở Quy Nhơn (1924-1927), tham gia bãi khóa để tang nhà cách mạng Phan Châu Trinh nên bị đuổi học, phải ra Hà Nội học tiếp. Sau khi đậu tú tài toàn phần, Nguyễn Vỹ dạy học tại trường trung học Thăng Long, Hà Nội. Vừa dạy học, vừa làm thơ, viết văn, viết báo... Nguyễn Vỹ là tên thật, các bút hiệu khác: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền. Cuộc đời ông trải qua nhiều sóng gió và nghiệt ngã nhất với nghề báo.
Vào chiều ngày 3 tháng 9, 2024, tại rạp Frida Cinema, thành phố Santa Ana, Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) chính thức khởi động Đại Hội Điện Ảnh Việt Nam Quốc Tế 2024 (Viet Film Fest-VFF), sự kiện phim ảnh quốc tế thường niên lớn và lâu dài nhất của cộng đồng người Việt hải ngoại.
Đội Los Angeles Lakers vừa công bố kết quả cuộc thi tuyển nghệ thuật “Lakers In The Paint - 2023-2024”, nhằm vinh danh mười nghệ sĩ da màu từ khắp khu vực Los Angeles như một phần của chương trình nghệ thuật thường niên của đội nhằm ghi nhận, hỗ trợ và nâng cao tinh thần cho các nghệ sĩ đến từ các cộng đồng thiểu số. Trong mười họa sĩ trúng tuyển, có hai họa sĩ gốc Việt, gồm họa sĩ Ann Phong và Michael Trần Thế Khôi, và 8 họa sĩ từ các cộng đồng đa dạng Abby Aceves, Estefania Ajcip, Jessica Taylor Bellamy, Daryll Cumbie, Derick Edwards, Megan Gabrielle Harris, Marlon Ivory, Larry Li
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.