Hôm nay,  

Văn Hóa “Tự Sướng”

16/09/202200:00:00(Xem: 5367)

Hình-ghép-cho-trang-nhất
Hình: 1. Người đàn bà đang chụp hình khung cảnh thành phố. 2. Tự chụp hình với cây “selfie-stick”

  

Vào tháng Năm vừa qua, một người đàn ông Ấn Độ đã thiệt mạng khi cố gắng chụp ảnh “tự sướng” bên cạnh một con gấu bị thương. Đây là cái chết thứ ba liên quan đến việc chụp ảnh tự sướng ở Ấn Độ kể từ tháng 12 năm ngoái. Trong hai tai nạn khác, những con voi đã đạp chết hai người trong lúc họ đang cố gắng tự chụp với chúng trong hai lần “tự sướng” riêng biệt.

Vào tháng 7 năm nay, Gavin Zimmerman, một người Mỹ du lịch đến Úc, 19 tuổi, đã mất mạng vì rơi xuống vực khi anh đang tự chụp ảnh tự trên một vách đá ở New South Wales.

Báo chí trong những năm gần đây thường xuyên xuất hiện những bản tin với những dòng tít như: “Một cặp vợ chồng mất mạng tại Yosemite Park trong khi chụp hình tự sướng.”; “Bé gái ngã chết trong lúc chụp hình tự sướng trên ban-công”; “Người đàn ông bị xe lửa tông khi đang chụp hình tự sướng”.
Tại sao người ta lại liều mạng chỉ để có được bức ảnh tự sướng hoàn hảo? Liệu nỗi “sung sướng” có đáng để đánh đổi tánh mạng, thời giờ, và những hậu quả liên hệ khác.

Bài này xin được gọi chữ “selfie” là “tự sướng” dù bị chỉ trích là sử dụng chữ nghĩa thô thiển, nhưng vì ý nghĩa gần như xác thực của cảm giác đạt được sau khi tự thực hiện điều này.
 
Sơ lược về lịch sử chụp ảnh “tự sướng”
 
Robert Cornelius, một nhiếp ảnh gia người Mỹ được ghi nhận là người tự chụp bức ảnh “tự sướng” đầu tiên: vào năm 1839. Cornelius, sử dụng một trong những chiếc máy ảnh đầu tiên, đã lắp đặt máy ảnh của mình và bắt đầu tự chụp.

Sự phát triển ngày càng rộng rãi của máy ảnh ngắm và chụp trong thế kỷ 20 dẫn đến việc tự chụp chân dung nhiều hơn, với nhiều người sử dụng phương pháp phổ biến (vẫn) là chụp ảnh trước gương.

Công nghệ chụp ảnh “tự sướng” đã có một bước tiến vượt bậc với sự phát minh ra điện thoại chụp ảnh. Sau đó, tất nhiên, có sự ra đời của chiếc gậy tự sướng. Đã có một thời cây gậy tự sướng được tôn vinh: tạp chí Time đã gọi cây “selfie-stick” là một trong 25 phát minh xuất sắc nhất năm 2014. Nhưng các nhà phê bình nhanh chóng chỉ ra điểm tiêu cực của nó và gọi nó là “cây gậy tự kỷ” và cây gậy này hiện bị cấm ở nhiều bảo tàng và công viên, bao gồm cả Walt Disney Resort.

Bất chấp những lời chỉ trích nhắm vào ảnh tự chụp, mức độ phổ biến của chúng vẫn không ngừng tăng triển. Các con số cụ thể dường như không thể nào đếm đủ, ước tính số lượng số lần selfie được đăng tải hàng ngày vẫn ở mức tối thiểu 1 triệu đến tối đa là 93 triệu chỉ tính trên các thiết bị Android.
 
Dù con số thực sự là bao nhiêu, một cuộc khảo sát của Pew từ năm 2014 cho thấy cơn sốt chụp ảnh tự sướng đã làm khuynh đảo giới trẻ. Trong khi 55% thế hệ trẻ tuổi chia sẻ ảnh tự sướng trên trang xã hội, có 33% thế hệ lớn tuổi (những người sinh từ 1920 đến 1945) thậm chí không biết selfie là gì hay chưa từng “tự sướng”.
 
Một báo cáo của Anh năm 2016 cũng cho thấy phụ nữ trẻ tham gia tích cực hơn vào việc chụp ảnh tự sướng, họ dành tới 5 giờ một tuần để tự chụp chân dung. Lý do lớn nhất để làm như vậy là gì? Tự thấy mình đẹp. Nhưng những lý do khác làm điều này là để khiến người khác ghen tị, hoặc để khiến người tình lừa dối hối hận về sự không chung thủy của họ.
 
Tăng cường tự tin hay xoa dịu tự ái?

Hình minh họa trang trong
Hình: Vua selfie “Hạo Nhiên” và nhóm bạn
 
Một số người xem ảnh tự chụp là một tiến trình tích cực.
 
Giáo sư tâm lý Pamela Rutledge tin rằng hành động tự chụp-tự sướng này giúp tôn vinh “những người bình thường”. Và nhà tâm lý học Andrea Letamendi của UCLA tin rằng ảnh tự chụp “cho phép thanh niên thể hiện trạng thái tâm trạng của họ và chia sẻ những trải nghiệm quan trọng.”
 
Một số lập luận rằng ảnh tự chụp có thể tăng cường sự tự tin bằng cách cho người khác thấy bạn “tuyệt vời” như thế nào đồng thời có thể lưu giữ những kỷ niệm quan trọng.
 
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều mối liên hệ tiêu cực với việc chụp ảnh tự sướng. Trong khi ảnh tự chụp đôi khi được ca ngợi là một phương tiện để nâng cao vị thế, một nghiên cứu ở châu Âu cho thấy rằng thời gian dành cho việc xem ảnh tự chụp trên mạng xã hội có liên quan đến suy nghĩ tiêu cực về hình ảnh cơ thể của phụ nữ trẻ.
Ngoài những tác động như gây chấn thương, tử vong hay đơn giản là sự vô vị, một vấn đề lớn đối với ảnh tự chụp dường như là chức năng của chúng hoặc là nguyên nhân hoặc hậu quả của lòng tự ái hay tự ti-tự tôn.
 
Peter Grey, viết trong tạp chí Psychology Today, mô tả lòng tự ti-tự tôn là “một cái nhìn thổi phồng về bản thân, cùng với sự thờ ơ tương đối với người khác”.Người tự ti-tự tôn có xu hướng đánh giá cao tài năng của họ và phản ứng với sự tức giận trước những lời chỉ trích. Họ cũng dễ bị bắt nạt hơn và ít khi nghĩ thông cảm hay quan tâm đến người khác. Theo Gray, các cuộc khảo sát về sinh viên đại học cho thấy đặc tính này ngày nay phổ biến hơn nhiều so với 30 năm trước.
 
Ảnh tự chụp và lòng tự ti-tự tôn có tương quan không? Nhà tâm lý học Gwendolyn Seidman gợi ý rằng hai điều này có liên hệ qua lại. Cô trích dẫn hai bản nghiên cứu đã kiểm tra mức độ phổ biến của ảnh tự chụp trên Facebook/instagram trong một cuộc khảo cứu hơn 1,000 người. Theo đó, những người đàn ông trong cuộc khảo cứu đăng nhiều ảnh tự chụp hơn cho thấy bằng chứng về lòng tự ti-tự tôn cao hơn so với nhóm người không đăng ảnh “tự sướng”. Trong khi những phụ nữ với số lượng đăng ảnh tự sướng cao lại liên quan đến một yếu tố khác nhẹ hơn của lòng tự ái được gọi là "nhu cầu ngưỡng mộ", được định nghĩa là "cảm giác được hưởng địa vị hoặc đặc quyền đặc biệt và cảm thấy vượt trội hơn những người khác."
 
Điểm mấu chốt của cuộc khảo cứu này là kết luận: Ảnh tự chụp và lòng tự ái, tự ti-tự tôn dường như có mối liên hệ tương quan với nhau.
 
Cách chúng ta so sánh bản thân với những người khác

Ảnh tự chụp là phương thức tự thể hiện phổ biến và được thế hệ trẻ thời nay ưa thích.
 
Các nhà tâm lý học nghiên cứu khái niệm về bản thân đã gợi ý rằng hình ảnh bản thân của chúng ta và cách chúng ta thể hiện nó được lọc qua hai tiêu chí: khả năng tin cậy (mức độ đáng tin cậy của những đăng tải từ chính mình về bản thân mình) và lợi ích (mức độ hấp dẫn, tài năng và kết quả mong muốn của những gì mình đăng tải về bản thân mình).
 
Theo nghĩa này, selfie hay hình tự chụp tự sướng là phương tiện hoàn hảo. Đó là một cách dễ dàng để phô trương ra bằng chứng về một cuộc sống thú vị, tài năng và khả năng phi thường, trải nghiệm độc đáo, vẻ đẹp cá nhân và sức hấp dẫn của bản thân.
 
Trong khi đó số liệu cho thấy rằng người ta đơn giản thích xem khuôn mặt. Trên mạng xã hội, ảnh tự chụp thu hút nhiều sự chú ý và nhiều bình luận hơn bất kỳ ảnh nào khác, và bạn bè và đồng nghiệp của chúng ta khẳng định họ yêu thích ảnh tự chụp bằng cách bấm “like” cũng như sử dụng các hình thức chấp thuận khác trên phương tiện truyền thông xã hội nhiều hơn.
 
Một giải thích cho lý do tại sao mọi người lại bị thu hút bởi việc nhìn vào ảnh tự chụp có thể đến từ một khuôn khổ tâm lý được gọi là lý thuyết so sánh xã hội. Người khởi xướng lý thuyết, Leon Festinger, đã đề xướng rằng mỗi người chúng ta đều có bản năng bẩm sinh và động lực đánh giá bản thân so với những người khác. Điều này được thực hiện để cải thiện cách chúng ta cảm thấy về bản thân (tự nâng cao), đánh giá bản thân (tự đánh giá), chứng minh chúng ta thực sự giống như chúng ta nghĩ (tự xác minh) và trở nên tốt hơn (tự cải thiện).

Đây là một danh sách gợi ý một loạt các động cơ có vẻ khá tích cực. Nhưng không may thực tế không mấy lạc quan như vậy. Theo các cuộc khảo cứu, những người có nhiều khả năng đăng ảnh tự chụp dường như có lòng tự tin thấp hơn những người không đăng. Ảnh tự chụp thu hút sự chú ý, có vẻ như là một điều tốt. Sự chấp thuận đến từ các lượt “thích” và nhận xét tích cực trên mạng xã hội là phần thưởng - đặc biệt là đối với những người cô đơn, bị cô lập hoặc bất an. Tuy nhiên, kết quả từ các cuộc nghiên cứu không mấy phấn khởi.
 
Ảnh Hưởng đến Quan Hệ Tình Cảm
 
Một nghiên cứu mới của các học giả Jessica Ridgway và Russell Clayton thuộc Đại Học bang Florida đã phát hiện ra rằng những người hài lòng hơn với hình ảnh khuôn mặt và cơ thể của họ đăng nhiều ảnh tự chụp hơn lên mạng xã hội – do họ tự tin khi phô trương hình tự chụp. Nhưng ngược lại họ cũng cho biết họ gặp nhiều xung đột hơn với người bạn đời - chẳng hạn như tranh cãi ghen tuông về sự chú ý của người khác dành cho hình đăng tải lên mạng của họ - và chất lượng quan hệ tình cảm của họ kém hơn so với những cặp không đăng hình tự chụp. Điều này có nghĩa việc  họ “tự sướng” với ảnh tự chụp đăng tải lên Instagram hay facebook liên quan đến việc “tự hại” quan hệ tình cảm của họ?
 
Các nghiên cứu chỉ ra rằng trong quan hệ tình cảm, khi một người thường xuyên đăng ảnh tự chụp hấp dẫn, người kia có thể cảm thấy ghen tị hoặc bị đe dọa. Điều này có thể dẫn đến việc theo dõi mạng xã hội của nhau, gây ra xung đột, nghi ngờ, lừa dối hoặc chia tay.
 
Một cách khác để giải thích những tác động có thể gây tổn hại tình cảm của việc đăng ảnh tự chụp là họ lo “tự sướng” mà không lo “sướng chung” khiến người bên cạnh có cảm giác bị bỏ rơi. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng người ở trong quan hệ với người nghiện tự chụp tự sướng cảm thấy họ không gắn bó và thiếu hỗ trợ tinh thần trong mối quan hệ của họ.

Tuy vậy, các liên quan đưa ra trong nghiên cứu của Ridgway và Clayton không thể nói chắc chắn liệu việc đăng ảnh tự chụp trên Instagram có thực sự khiến người bạn đời hay người tình bên cạnh cảm thấy không an toàn hoặc bị bỏ rơi, do đó tác động khiến mối quan hệ đi xuống hay không. Và xu hướng tự chụp tự sướng vẫn tiếp tục tăng triển và ai trong chúng ta có lẽ ít nhiều cũng đều đã có lần tự chụp hình bằng điện thoại hay có lần tự đăng hình hình mình “tự sướng” lên mạng xã hội.
 
Tự Sướng ở Nhiều Lãnh Vực Khác
 
Chữ “tự sướng” không chỉ giới hạn cho việc tự chụp hình, tự làm người mẫu, tự xem hình bản thân, rồi lân lân tự sướng, mà ở thời đại kỹ thuật tân tiến ngày nay, quá trình tự sướng này được áp dụng trong nhiều lãnh vực khác của cuộc sống.

Chẳng hạn người ta từ bao giờ đã giảm thiểu nhu cầu đi nghe các chương trình nhạc trang trọng nơi người nghe đến ngồi yên lặng nghe ca sĩ nghệ sĩ chuyên nghiệp trình diễn, mà thay vào đó họ thích đi đến các buổi tụ tập “hát cho nhau nghe” nơi họ được tự hát, hay dễ dàng hơn nữa là mỗi nhà tự sắm một bộ karaoke rồi tự diễn, tự nghe, tự đắm đuối, và tự sướng.

Dĩ nhiên, quá trình tự sướng này không có giới hạn. Hãy tưởng tượng sau khi được làm người mẫu, tự ngắm nghía mình, bạn trở thành ca sĩ, tự nghe mình hát. Sau đó tiến thẳng lên làm văn sĩ, thi sĩ, tự viết truyện, tự làm thơ, tự in sách của mình, và tự say đắm.

Còn chữ nào đúng nghĩa hơn chữ “tự sướng”.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi biết BS. Phạm Gia Cổn lúc tôi vừa tập tễnh bước vào đời lính, nhận trách nhiệm làm y sĩ trưởng cho Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, cùng một tiểu đoàn mà BS. Cổn vốn là y sĩ tiền nhiệm 2 năm trước. Tôi lội bộ theo TĐ, Anh làm chỉ huy trưởng Bệnh Viện Dã Chiến Đỗ Vinh tại căn cứ Non Nước, Đà Nẵng. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau ở BV Dã Chiến khi tôi theo trực thăng chuyển thương binh. Tôi nhìn thấy anh cao lớn, rất phong độ, uy dũng, với 3 bông mai đen ở cổ áo hoa rừng và dấu hiệu 3 đấm tay của Đệ Tam Đẳng Huyền Đai Tae Kwon Do ở túi áo trước ngực bên trái. Nhìn vào Anh, tôi có cảm giác như một tảng đá mạnh bạo, có tinh chất võ biền mà mình có thể dựa lưng khi cần. Dù hình tướng có vẻ rất quân kỷ, nhưng thái độ anh lại hòa nhã, ăn nói nhẹ nhàng, cởi mở nhưng trực tính. Anh đã cho tôi sự tự tin và niềm vui trong tình huynh đệ. Về sau, tôi cũng biết tin anh được đề cử làm Y Sĩ Trưởng Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù trong trận bảo vệ phòng truyến Phan Rang vào đầu tháng 4, 1975.
Hầu như mỗi cuối tuần, cô ấy và tôi đều đi đâu đó bằng tàu điện hoặc xe buýt. Ở Ukraine, có thể đi xa trong cuối tuần và trở về đúng thời hạn. Chỉ một lần chúng tôi về trễ, đi làm muộn hôm thứ hai. Đó là ngày chúng tôi đón xe đi nhờ từ Milove, vùng Luhansk, vào tháng Giêng. Đây là nơi cực điểm miền đông của đất nước. Đi đến bằng xe buýt, lúc quay về, chúng tôi cầm tay nhau đi bộ dọc con đường phủ đầy tuyết. Thuở đó chúng tôi say mê nhau. Những anh chàng ở nhà bốn cửa kiểu Liên Xô cho chúng tôi đi nhờ, không có vấn đề, ngoại trừ mỗi lần họ chỉ chở chúng tôi vài kilô mét, rồi thả xuống để rẽ vào làng của họ. Nhìn ánh sáng xanh ngát buổi hoàng hôn, chúng tôi rùng mình và cảm thấy hạnh phúc.
"Happening", ghi lại ca nạo phá thai bất hợp pháp mà bà đã trải qua, vào năm 1963 ở tuổi 23 và là nguồn cảm hứng cho bộ phim cùng tên của Audrey Diwan. Bộ phim đã được phát hành vào tháng 5 vừa qua, không lâu trước khi Tòa án tối cao pháp viện Hoa Kỳ kết thúc gần nửa thế kỷ Quyền bảo vệ sinh sản của liên bang bằng cách lật ngược Roe vs. Wade. Dù sau khi cải cách, Hàn Lâm Viên đã nỗ lực tuyên bố giải Nobel văn học đánh giá trên giá trị văn chương, nhưng câu hỏi vẫn được nêu ra: Giá trị văn chương và ảnh hưởng chính trị có biên giới ở đâu? Như trường hợp giải Nobel năm 2016, trao cho nhạc sĩ Bob Dyland. “Một nhạc sĩ kiêm nhà viết ca khúc, không phải tác giả. Mặc dù ông đã viết một hồi ký rất hay, một tập thơ dở và một bài diễn văn về The Eagles Woman.”* Việc này đưa đến nhiều dư luận phê phán, tạo ra tên gọi “kỷ nguyên hỗn loạn của giải Nobel.”
Trong quyển tiểu sử Gabriel García Márquez: A Life, Gerald Martin kể rằng García Márquez viết Trăm năm cô đơn chỉ trong vòng một năm, từ tháng 7 năm 1965 cho đến tháng 7 năm 1966, dù ông luôn nói rằng ông mất đến 18 tháng, hoặc có khi là 18 năm. “Trong một tia cảm hứng chớp nhoáng, ông đã nhận ra rằng thay vì viết một cuốn sách về thời thơ ấu của mình, ông nên viết một quyển sách về những kỷ niệm thời thơ ấu của mình. Thay vì một cuốn sách về hiện thực, nó nên là một cuốn sách về sự biểu thị của hiện thực […] Thay vì một cuốn sách về Aracataca và con người ở đó, nó sẽ là một quyển sách được thuật lại qua thế giới quan của họ.”….
Cuốn tiểu thuyết xoay quanh một cuộc giết người bí ẩn trên một hòn đảo Ottoman hư cấu nơi sinh sống của cả người Thổ Nhĩ Kỳ và người Hy Lạp, từ đó đưa ra các suy ngẫm về sức mạnh của các quốc gia hiện đại. Một số nhân vật quen thuộc của Pamuk: Abdulhamid II, một quốc vương đấu tranh để cứu đế chế Ottoman, có chung xu hướng chuyên quyền và Hồi giáo với tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ, Recep Tayyip Erdogan. Một người khác hao giống người sáng lập đất nước, Kemal Ataturk. Đối với một cuốn tiểu thuyết lịch sử, "Nights of Plague" lại mang tính chất khá đương đại.
Annie Ernaux (tên khai sinh là Annie Duchesne; sinh ngày 1 tháng 9/1940) là một nhà văn và giáo sư văn học người Pháp. Ernaux lớn lên ở Yvetot ở Normandy. Xuất thân từ tầng lớp lao động, nhưng ba mẹ làm chủ một tiệm café-tạp hóa. Bà học ở Rouen và Bordeaux, dạy ở trường trung học và sau đó, trong 23 năm, làm việc cho một trường đại học đào tạo từ xa của Pháp, cned.
Khi mùa thu đến, những làn gió thu sẽ là nhân duyên đưa đẩy những chiếc lá, cả xanh lẫn vàng, rơi xuống cội, hoặc bay đi xa. Tâm không xao động. Vì đâu cũng là đất; đâu cũng là nơi chốn an ổn để trở về khi cuộc sống tương lai đã được chủ định sẽ như thế nào trong từng phút giây hiện tại.
Tôi có cơ hội đi dọc Việt nam sau hoà bình để kiếm sống chứ chẳng vì mục đích cao cả nào khác. Thời bao cấp đói nghèo thì ai cũng đã biết, nhưng không vì lý do thiếu thốn đủ thứ mà tô bún riêu mỗi nơi mỗi khác, nó mang đặc trưng vùng miền cũng không hẳn, vì trước năm 1975 thì tô bún riêu ở mỗi nơi đã mỗi khác trên đất nước có chiều dài như Việt nam ta.
Tác giả của bài thơ là Tamura Ryuichi (1923-1998). Ông họ Điền Thôn, tên Long Nhất. Tôi gọi ông là Thanh Tâm Tuyền của Nhật Bản vì mấy lý do khác nhau...
Ngoài trời gió nhè nhẹ thổi, những chiếc lá mùa thu đang lãng đãng rơi rơi. Cái lành lạnh của gió heo may bên ngoài như đang hòa nhịp thở với những điệu nhạc “tiền chiến” mà tôi đang thưởng thức trong phòng đọc sách, một căn phòng đầy ấm cúng thương yêu...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.