Hôm nay,  

Tản Mạn về thi phẩm Xuân Vẫn Tha Hương của Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh

28/01/202316:53:00(Xem: 6445)

Tản Mạn về thi phẩm Xuân Vẫn Tha Hương của Nữ Sĩ  Minh Đức Hoài Trinh 

 

 

* Lê Ngọc Châu

 

 

Chúng ta đều rõ là Âu, Mỹ đón Tết Dương Lịch mỗi năm vào ngày 01.01.

Hằng năm, người Á Châu nói chung và người Việt Nam nói riêng đều đón Tết theo Âm Lịch.

Như vậy người Á Chân có dịp mừng Năm Mới đến hai lần.

 

Chúng ta biết rồi, ngay từ khi còn bé cho đến lúc già chắc chắn không ai mà không biết đến Tết. Khác một điểm là mỗi miền của Việt Nam tổ chức Tết theo phong tục của điạ phương điển hình qua Mâm Cổ Cúng Tết.

 

Trước khi giới thiệu về Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh và tác phẩm của bà cho tôi được mở ngoặc ở đây, đề cập sơ vài điểm chính về Mâm Cổ Tết của Ba Miền Nam-Trung-Bắc Việt Nam.

 

Đặc trưng Miền Bắc trên Mâm Cỗ Tết thì có bánh chưng, Miên Nam có bánh Tét và Miền Trung Việt Nam thuần túy với Mâm cỗ ngày đơn giản, chân thành.

 

Mâm cỗ ngày Mùng Một Tết của người miền Bắc gồm có: Bánh chưng, dưa hành, thịt gà luộc, thịt lợn (heo) chiên, thịt đông, miến xào, chả giò, nem chua, canh khoai tây.

 

Mâm cỗ ngày Tết của người miền Trung gồm có những món ăn cơ bản mỗi thứ một ít, được bày trên chiếc mâm tròn thường thấy, bao gồm

 

  • Gà luộc, Thịt heo
  • Bánh tét, Nem chua, Dưa hành
  • Ram cuốn (Ghé Đà Nẵng/Quảng Nam, bên cạnh những đặc sản Mỳ Quảng, bún mắm, bánh tráng cuốn thịt heo, ram cuốn cải là món ăn xuất sắc không thể bỏ qua),…

 

Món ăn không thể nào không kể tên trong mâm cỗ cúng Tết ở miền Nam là thịt kho trứng. Ngoài ra cũng phải kể đến món canh khổ qua nhồi thịt với quan niệm cho rằng mọi sự khổ ải sẽ đều qua đi để đón chào một năm mới hạnh phúc hơn.

Ngoài 2 (hai) món ăn trên người miền Nam còn chuẩn bị thêm

 

 

Riêng Bánh Tét ở miền Nam rất đa dạng về nhân, có bánh Tét nhân đậu xanh, đậu đen, chuối, dừa, … Một số gia đình cũng chuẩn bị thêm chả lụa, giò thủ, lạp xưởng nếu thích.

 

Mâm cỗ, mâm cúng Tết của 3 miền Bắc, Trung và Nam của Việt Nam tuy có nhiều điểm khác nhau trong các món ăn, cách trang bày cho đến những nguyên tắc, ý nghĩa của nó. Tuy nhiên cho dù thế nào đi chăng nữa thì những mâm cỗ của Ba Miền Việt Nam nói chung đều phản ảnh những giá trị thiêng liêng, sâu sắc của nền văn hóa và tín ngưỡng của người Việt Nam.

 

Nói chung sự khác biệt về "Mâm Cổ" cúng Tết của mỗi miền vì nhiều lý do theo Phong Tục, Tập Quán của miền đó nhưng vẫn không thể thiếu các món chính trong các mâm cỗ ngày Tết là Bánh chưng, Dưa hành, Thịt gà luộc, Xôi gấc, Nộm, Nem rán.

 

Trước khi đề cập chi tiết hơn về bài thơ tôi mạn phép giới thiệu sơ về Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh (NS_MĐHT), người mà tôi tuy viết lách chỉ là nghiệp dư từ hơn 20 năm qua đã hân hạnh và tình cờ được quen biết ..

 

Theo internet thì tác giả Minh Đức Hoài Trinh (MĐHT) có tên khai sinh là Võ Thị Hoài Trinh, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1930. Bà là một nữ văn sĩ, trước 1975 từng là phóng viên chiến trường thời Việt Nam Cộng Hòa. Bà còn dùng một số bút hiệu khác như Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh và Bằng Cử.

 

MĐHT sinh ra ở Huế trong gia đình danh gia vọng tộc, dòng dõi Xuân Hòa hầu Võ Liêm,  Thượng thư bộ Lễ dưới hai triều Hoàng đế Khải ĐịnhBảo Đại nhà Nguyễn. Thân phụ là Tổng đốc tỉnh Quảng Nam. Năm 15 tuổi, bà Trinh tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp một thời gian ngắn rồi về Huế tiếp tục học.

 

blank

 

 

Năm 1964, bà sang Pháp du học ngành báo chíHán văn tại trường ngôn ngữ Á Đông La Sorbonne ở Paris. Sau khi ra trường, kể từ năm 1967 bà làm phóng viên cho đài truyền hình ORTF (Office de Radiodiffusion Télévision Française) của Pháp. Bà cũng từng là phóng viên chiến trường trong chiến tranh Việt Nam và được cử theo dõi tường trình Hòa đàm Paris vào năm 1972 hầu chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình Việt Nam.

Năm 1973, bà sang Trung Đông theo dõi chiến tranh Yom Kippur.

Năm 1974, bà trở về Sài Gòn và giảng dạy khoa báo chí ở Đại học Vạn Hạnh.

 

* Đóng góp văn học

 

Sáng tác của bà Minh Đức Hoài Trinh thuộc nhiều thể loại như thơ, truyện ngắn, truyện dài. Sau năm 1975, bà trở lại Pháp và cho xuất bản tạp chí Hồn Việt Nam. Bà cũng sáng lập Hội Văn bút Việt Nam Hải ngoại và ra sức vận động để hội được công nhận tư cách hội viên Hội Văn bút Quốc tế vào năm 1979 tại Rio de Janeiro, Brasil.

Năm 1980, bà sang Hoa Kỳ định cư tại quận Cam, California.

 

Năm 2017, bà qua đời tại thành phố Huntington Beach, California.

 

* Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh đã xuất bản những  tác phẩm

 

  • Lang thang (năm 1960); Thư sinh (1962); Bơ vơ (1964); Hắn (1964); (1964)
  • Thiên nga (1965); Hai gốc cây (1966); Sám hối (1967)
  • Tử địa (1973): Trà thất (1974); Bài thơ cho ai?, năm 1974.
  • Dòng mưa trích lịch, Bruxelles (năm 1976)
  • 2014, Chính Khí Của Người Cầm Bút do Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ thực hiện, Nhân Ảnh xuất bản.

Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh mất ngày 19 tháng 6 năm 2017.

             

Ở trên là tóm lược về tiểu sử và tác phẩm của Bà Minh Đức Hoài Trinh.

 

Cho tôi mở ngoặc thêm ở đây chút xíu là năm 2015 tôi hân hạnh được làm quen với Cố Thi-Văn Sĩ Minh Đức Hoài Trinh khi nhận được quyển sách Chính Khí Của Người Cầm Bút do bà gửi tặng. Cũng xin được nói thêm, Bà Minh Đức Hoài Trinh đã cùng với hai ông Trần Tam Tiệp và Nguyên Sa Trần Bích Lan sáng lập ra Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (Founder of Vietnamese Abroad Pen Center).

 

Năm 1978-1979 bà Minh Đức Hoài Trinh là Chủ tịch của Pen VietNam.

 

 

Bây giờ tôi mạn phép thử đưa "Thi Phẩm của Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh lên bàn mổ và xin mạo muội giới thiệu ngắn gọn cùng Quý độc giả. Chỉ xin một điều mong Quý vị và nhất là những thi sĩ hoan hỷ cho mọi sự nếu tôi không hay chưa diễn đạt trọn vẹn ý thơ.

 

Tiêu đề "Xuân Vẫn Tha Hương" của bài thơ cũng đủ để chúng ta biêt hay hình dung ra ngay được hoàn cảnh của chính Thi Sĩ tác giả cũng như của một người thật sự bỏ nước ra đi vì hoàn cảnh để tị nạn cộng sản.

 

Mở đầu thi phẩm, MĐHT đã xác định rõ ràng thân phận của chính mình (và có lẽ của nhiều người Việt Nam khác cùng cảnh ngộ, trong đó có người viết kể từ khi tị nạn chính trị ở Đức sau 1975!):

 

          Thế mà con mẹ vẫn tha hương,

 

Tác giả đã phác họa cảnh sống của mình nơi xứ người với bao nỗi nhớ thương:


          Xa mẹ, xa nhà, xa mến thương,

 

Sự khác biệt về Đêm Giao Thừa của quê hương Việt Nam và quê hương mới được thu gọn đơn giản và dễ hiểu qua hai câu thơ sau đây:


          Trừ tịch đêm nào hồng tiếng pháo,
          Nơi nầy chỉ thấy tuyết hòa sương.

 

Để rồi tác giả nhớ lại khung cảnh ngày xưa khi còn ở quê nhà mà có lẽ nhiều người Việt Nam đều đã trải qua trưóc 1975 :

 

          Đêm nay hồi tưởng đến đêm xưa,
          Ngây ngất đâu mùi hương thoáng đưa,
          Bóng Mẹ cúi bày mâm cỗ cúng,
          Khấn Ông Bà đến để say sưa.

 

Riêng những gia đình nào có con cái "vượt biên, vượt biển" tìm Tự Do sau 1975 có lẽ hiểu rõ hơn ai hết khi thiếu vắng hình bóng người thân trong gia đình:

 

          Mẹ bảo ông bà vẫn hỏi con,
          Rằng Tr. sao nó vắng nhà luôn,

 

Tác giả hồi tưởng lại cảnh xa xưa khi còn cấp sách đến trường mà chúng ta cũng đã trải qua:

 

          Mẹ có nhớ thưa con cố học,
          Bao giờ thi đỗ mới hồi hương.

 

Đặc biệt khung cảnh lúc gần Tết mà tác giả thi sĩ không quên được, còn ghi nhớ:

 

          Bánh chưng mẹ nấu có nhiều không?
          Nồi bánh chưng này ai thức trông?
          Mẹ có gói thêm đòn bánh nhỏ?
          Để cho con út mẹ vòi công . . .

 

Để rồi, tác giả diễn tả hoàn cảnh của mình (và có lẽ cũng là của những người Việt Nam đồng cảnh ngộ), đơn giản nhưng trung thật khi nhắc đến Mẹ:

 

          Xuân này con mẹ vẫn tha hương,
          Mẹ một phương trời, con một phương,

 

Hình ảnh Người Mẹ Già được tác giả phác hoạ chỉ với một câu thơ nhưng rõ nét:


          Tóc trắng Mẹ già thêm chút nữa,

 

Vâng, xa nhà xa quê hương, xa gia đình nhất là xa Mẹ, nhớ thương Mẹ đã được Thi Sĩ tác giả tâm sự để kết thúc thi phẩm, được gói trọn qua câu thơ:

 

          Và con, nhòa nhạt tiếng yêu đương.

 

Bài thơ thật súc tích, không những cho người đọc hình dung ra được ngay cảnh gia đình chuẩn bị đón Tết mà còn đong đầy tình cảm thương nhớ người thân và quê hương.

 

 

Bây giờ tôi mạn phép được giới thiệu nhạc phẩm do tôi phổ nhạc bài thơ Xuân Vẫn Tha Hương dưới đây với khả năng tự học mò tàm thụ với ông thầy Google để kết thúc bài tạp ghi.

 

Thú thật trong đời tôi hầu như ít khi viết giới thiệu về Thơ-Văn-Nhạc vì tôi không biết gì nhiều về nhạc nên xưa nay nào dám. Thêm nữa, văn chương chữ nghĩa của một cựu học sinh ban B như tôi thì "khỏi chê vì xưa lúc đi học rất ghét môn Việt văn", vậy mà thời gian qua tôi lựu đạn đã xí xọn, gồng mình viết vài bài tạp ghi giới thiệu về thơ nhạc, lại còn bày đặt phổ vài bài thơ mình thích tình cờ thấy trên nhóm / diễn đàn thành nhạc nữa. Thầm nghĩ cũng lạ thật !.

 

Xin nói thêm, cái hay của thi phẩm " Xuân Vẫn Tha Hương " của Nữ Sĩ Minh Đưc Hoài Trinh theo tôi là Văn-Thi Sĩ Minh Đưc Hoài Trinh đã vẻ ra đơn giản cái "Không Khí Tết xứ người, pha lẫn sự nồng nàn nhớ Quê Mẹ của một người đang sống tha phương trong đó.

 

Thi sĩ tác giả kết thúc bài thơ diễn tả nỗi thương nhớ "Mẹ" của người mất nước và cũng chính là nỗi đau của tác giả đối với quê hương khi còn trẻ cho đến cuối tháng Tư năm 1975 …

 

 

Tôi mạn phép ngưng ở đây và mời Quý độc giả ghé ghé xem bản nhạc do tôi (người soạn nhạc) biên soạn tài tử như là món quà nhỏ kính tặng Cố Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh, tác giả của thi phẩm " XUÂN VẪN THA HƯƠNG " mà tôi hân hạnh và tình cờ quen qua diễn đàn Thơ-Văn và Cạu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ ở California/USA.     

 

 blank

 

 

©       Lê-Ngọc Châu

 

          * Nam Đức, Chiều Mồng Bảy Tết Quý Mão, 28. January 2023

          * Tài liệu tham khảo: Internet / Wikipedia & hình tác giả từ internet tự minh họa với nhạc.

 

*************



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuộc đời là vô thường vì vậy mọi thứ đều không ngừng thay đổi kể cả các nền văn hóa, các chuẩn mực hoặc tập quán xã hội. Cách nay khoảng nửa thế kỷ những người độc thân cảm thấy rất “tủi thân” vì cuộc sống cá nhân đơn độc hoặc vì cái nhìn của xã hội đối với những người như thế không hoàn toàn cảm thông và cởi mở. Ngày nay thì khác. Phụ nữ sống độc thân rất vui vẻ, yêu đời đối với bản thân trong khi xã hội cũng không còn có cái nhìn dị biệt hay nghiêm khắc nữa.
Theo thống kê mới nhất của viện thống kê Gallup thì ngày nay dân Mỹ ra thư viện tìm sách đọc nhiều hơn đi xem xi-nê. Năm 2019, theo báo cáo của viện, cứ hai người đi thư viện thì chỉ có một người đi xem xi-nê. Một tỉ số chênh lệch đáng chú ý!
Có lẽ ít ai hiểu rõ bạo lực chuyên chính đối xử như thế nào với các thành phần văn nghệ sĩ trong xã hội hơn dân tộc Việt Nam. Có biết bao trí thức văn nghệ sĩ là nạn nhân của cái-gọi-là “văn nghệ vô sản,” “hiện thực xã hội chủ nghĩa,” v.v… Những tên tuổi hay được nhắc đến trong sách vở có lẽ chỉ là phần nổi của tảng băng sơn.
Một ngày tháng 8 năm 1992, tôi nhận được một bài thơ của một người bạn tin cẩn gởi từ trong nước. Anh chép tám câu thơ của Hòa Thượng Thích Quảng Độ nhưng không có tựa.
Hồ Trường An, tên thật Nguyễn Viết Quang, sinh ngày 11 tháng 11, năm 1938, tại Long Đức Đông, tỉnh Vĩnh Long. Ông cũng là em ruột của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ (hiện còn ở Miền Nam Việt Nam). Thuở nhỏ ông học trường Collège de Vĩnh Long, rồi Trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho và Trung học Chu Văn An, Sài Gòn.
Khi loài người phát minh ra lửa và sử dụng trong đời sống hàng ngày để nấu ăn, sưởi ấm và chống lại thú rừng cách nay hơn một triệu rưởi năm về trước là bước ngoặc lịch sử mở đầu cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu để nhân loại bước ra làm người, xây dựng nền văn minh và văn hóa ngày càng rực rỡ. Nhưng đâu đó trong nhà tù cộng sản Việt Nam, nơi thế giới rừng rú hoang dã rợn người vào những năm cuối thế kỷ hai mươi, khi người tù sử dụng lửa từ hai hòn đá tạo ra để hun đúc ngọn lửa yêu thương, sức mạnh của nội tâm và ý chí sống mãnh liệt cũng là cuộc cách mạng thầm lặng, im lặng khác thường khiến cho chế độ với bản chất ồn ào, bạo động phải hoảng sợ.
Nguyễn Mạnh An Dân là một người viết văn dấn thân, anh viết về những điều đáng viết khi nhìn chuyện xấu xa ngoài xã hội. Anh chắc lọc đề tài, cẩn thận trau chuốt lời để tạo nên những đoạn văn trơn tru, gợi cảm, đánh vào lòng người đọc.
Văn hào John Steinbeck (1902-1968) là một nhà văn lớn của Mỹ quốc, tác giả nhiều cuốn tiểu thuyết kinh điển như Phía đông vườn địa đàng, Vườn nho nổi giận, Của chuột và người, v.v…
14 tháng 2 hàng năm là Ngày Lễ Valentine mà nhiều người gọi là Ngày Lễ Tình Nhân, là ngày Lễ Thánh Valentine mà cũng là ngày đặc biệt để những người yêu thương nhau biểu lộ tình cảm cho nhau.
Nhà văn Nguyễn Thị Vinh sinh ngày 15 tháng 7 năm 1924 tại Hà Nội. Hai cụ thân sinh mất sớm khi bà mới lên tám. Khởi đầu bà làm thơ sau đó viết văn từ những năm 1939-1940. Năm 1948-1951: bà và con gái sang Hồng Kông tị nạn chính trị cùng với chồng là dịch giả Trương Bảo Sơn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.