Hôm nay,  

Danh tác

03/11/202300:00:00(Xem: 2373)

Logo cho fb
 
Tôi đến Pháp non ba mươi năm trước do lời mời của một người bạn. Anh ta cũng là họa sĩ. Như hầu hết các đồng nghiệp cùng chủng tộc, không mấy người sống bằng nghề cầm cọ, họ phải có một việc làm nào đó, tuy phụ nhưng lại là chính, nuôi thân, lo cho gia đình, vợ con. Ngày mới vào Đại học Mỹ thuật, như tất cả những người chọn hội họa làm hướng tiến thân, bạn tôi nuôi nhiều tham vọng. Ra trường sẽ sáng tác, sẽ triển lãm, sẽ bán được tranh, báo chí sẽ ngợi khen, vừa có tiếng vừa được miếng. Thế nhưng ba năm miệt mài vẽ, triển lãm, chả ma nào thèm để ý, tranh bán không ai mua, đã đành, truyền thông cũng ngoảnh mặt, có chăng chỉ vài ba dòng thông tin. Chấm hết! Vợ càm ràm: “Vẽ với vời! Tìm nghề khác mà làm cho được việc, chả lẽ suốt đời đi trên mây, mai mốt còn con cái.” Gẫm cho cùng vợ nói không sai. Bạn tôi rửa cọ, dẹp sơn đi xin việc. Nhờ tấm bằng Đại học, anh ta được một tờ báo lá cải nhận, nhiệm vụ của bạn tôi là giao dịch với các cơ sở thương mại, thiết kế những mẫu quảng cáo sao cho hấp dẫn. Từ một họa sĩ đầy tham vọng trở thành một anh chuyên viên tiếp thị cho các chợ, tiệm phở, bún bò, bánh cuốn… Buồn thối ruột, nhưng dù sao cũng còn hơn loay hoay với cọ sơn, khung bố, chẳng những chả đẻ ra cắc nào, còn mang tiếng ăn bám vợ! Job mới tuy thu nhập không cao song ổn định. Hoài bão xưa dần phai. Bạn tôi chỉ vẽ vào những lúc rảnh rỗi hoặc ban đêm. Năm mười năm, với vài đồng nghiệp cùng cảnh ngộ, chạy đến các tòa báo xin mượn được hoặc thuê phòng họp với giá tượng trưng hai ngày cuối tuần tổ chức triển lãm. Một hình thức hoài nhớ dĩ vãng, vỗ về mộng ước một thời đã bị áo cơm vùi giập! Khách xem lèo tèo, phần đông là bạn bè hoặc đồng hương, vài tờ báo tiếng Việt ngợi ca vớ vẩn.     
   
Thảm!
   
“Tủi lắm!” Anh bạn than.
   
“Vậy bỏ quách, vẽ làm gì nữa.”
   
Toi bỏ được không?”
   
Anh bạn hỏi lại. Tôi ú ớ. Quả thực đã bao nhiêu lần tôi “chừa!” nhất quyết không dan díu gì nữa với cái nghiệp bạc bẽo này, thậm chí đã có lần tặng tất cả sơn cọ, giá vẽ… cho một người bạn trẻ mới chập chững vào nghề. Nhưng rồi thời gian sau, không lâu, tôi lại sắm sửa màu, cọ, dụng cụ. Tôi nhớ mùi sơn, nhớ cảm giác thích thú khi tình cờ bắt gặp một gam màu lạ, nhớ nhiều giờ, nhiều ngày vật lộn với hình khối, đường ngang nét dọc trên khung bố. Mệt bở hơi tai song ngây ngất như say thuốc!
   
Văn học, nghệ thuật tựa ma túy, đã lỡ hệ lụy là trở thành con nghiện, khó dứt bỏ. Nếu bỏ được thì cũng sẽ tái phạm nếu có điều kiện.
   
Thú đau thương? Phải, thú đau thương!
   
Hơn một tuần anh bạn hướng dẫn tôi tham quan nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều địa điểm lừng danh như tháp Eiffel, viện bảo tàng Louvre. Nước Pháp là quốc gia có nền văn hóa cao. Nhiều tác phẩm văn học không những nổi tiếng đối với dân tộc Pháp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ ở nhiều đất nước khác. Trong lĩnh vực nghệ thuật, không ai không biết đến viện bảo tàng Louvre, lớn nhất thế giới, nơi qui tụ hàng nghìn danh tác, từ hội họa đến điêu khắc, từ cổ điển đến hiện đại. Muốn thưởng lãm mọi tác phẩm nghệ thuật đang được trưng bày (chưa kể còn vô số danh tác khác tồn kho, sẽ thay đổi luân phiền), chí ít cũng mất vài ngày.
   
Đứng trước bức tranh của Leonardo da Vinci vẽ nàng Mona Lisa, anh bạn hỏi tôi:
    
Toi thấy thế nào?” 
   
“Đẹp, dĩ nhiên, nhưng người ta đã ngợi khen thái quá, Leonardo da Vinci là một thiên tài trong nhiều lĩnh vực, hội họa, kiến trúc, giải phẩu cơ thể, những ý tưởng phát minh đi trước thời đại hàng vài thế kỷ… Song nếu không có những râu ria này góp phần, chưa chắc tác phẩm được săm soi, tụng ca như đã. Nhiều, rất nhiều họa phẩm đẹp và nghệ thuật không kém chúng ta vừa xem của không ít họa sĩ khác, có ai được ưu ái như ông này?”
   
Lùi ra xa ngắm kỹ bức tranh rồi tôi tiếp tục bày tỏ quan điểm:
   
“Moi
 đã đọc những bài khảo luận phân tích cặn kẽ ánh mắt, nụ cười mím chi quyến rũ, khóe môi, bàn tay, hậu cảnh, nếp áo của chân dung người mẫu, thậm chí người ta còn dùng X- quang xem bên dưới nàng kiều nữ này là mặt gỗ “trinh nguyên” hay đã có một bức tranh khác mà vì lý do nào đó, chưa vừa ý chả hạn, bị Da Vinci vẽ chồng lên. Chưa kể, người ta đã cất công tìm hiểu đời tư, chồng con người mẫu. Ngót sáu trăm năm, không biết bao giấy mực, nếu gom lại, không chừng chất đầy một xe tải cỡ lớn. Đúng là vẽ rắn thêm chân!”
   
Anh bạn cười:
   
“Vẽ rắn thêm chân, càng vui chứ sao.”
   
“Có lẽ toi nói đúng, chả lẽ con người chỉ loay hoay trong trong vòng ăn ngủ… thường tình? Vẽ rắn thêm chân, hiểu cách nào đó, là món ăn tinh thần làm phong phú tâm hồn.”
   
Chúng tôi sang phòng khác, nơi này trưng bày nhiều tranh kích thước lớn, thuộc thời kỳ sau Da Vincvi không lâu. Đứng trước một tác phẩm hoành tráng, dễ chừng hai mét chiều ngang, vẽ cảnh dạ vũ chốn cung đình, Anh bạn trầm trồ:
   
“Nhìn kìa, kỳ công chưa?”
   
Kỳ công thực, Hàng trăm nhân vật với y phục cầu kỳ, các mệnh phụ váy dạ vũ lướt thướt, nón đội đầu rộng vành, quai lụa thả rông, điểm xuyết vài bông hoa. Nam giới áo đuôi tôm, tóc giả chải bới công phu, đang cùng nhau thi thố tài năng nhảy nhót trong căn phòng rộng, trần cao, hai dàn đèn lớn tỏa ánh sáng lung linh, ở mỗi góc phòng là bệ tượng lớn tạc mỹ nữ khỏa thân hoặc nam nhân, cũng khỏa thân, đẹp mã.
   
Anh bạn tiếp:
   
“Để hoàn tất tác phẩm, hẳn họa sĩ tốn không ít thời gian tỉa tót hàng ngàn chi tiết. Moi đồ rằng những vị này chả làm gì khác ngoài vẽ.”
   
“Đúng vậy, giới quý tộc và quan lại thường chu cấp mọi nhu cầu vật chất, họ chỉ chụyên tâm vẽ.”
   
“Mấy tay này sướng thật.”
   
“Mỗi thời đại, cái đẹp được đánh giá bằng nhãn quan phù hợp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố tương tác. Ngày nay chúng ta ngắm nhìn những tác phẩm này, đẹp, tất nhiên, không ai hồ đồ phủ nhận, song nếu bảo các họa sĩ tiếp tục vẽ như thế, có lẽ đại đa số lắc đầu.”
   
Anh bạn tán đồng, vừa trả lời tôi đồng thời khẳng định đường hướng mình đang theo đuổi:
   
Moi đồng ý. Thời điểm ấy vẽ thế không lạ, nhưng bây giờ vẫn vẽ thế thì có khác nào đang giậm chân tại chỗ!”
   
Anh bạn cho rằng hội họa cũng giống mọi bộ môn khác, tiến hóa là yêu cầu tất yếu. Tại sao phải kỳ công tỉa tót từng đừng ren, từng nếp gấp y phục, từng nút thắt dây giày, từng gù tua mũ lộng lẫy, từng cành nhánh, lá hoa, từng vòng xoắn hoa văn trên gờ mái lâu đài, v.v… khi đã có caméra và đao cụ, cùng kỹ thuật tân kỳ làm công việc này. Góc nhìn, ánh sáng, trang phục, màu sắc sẽ lạ hơn, đẹp hơn nếu nghệ sĩ có khả năng sáng tạo cao. Đồng ý tác phẩm nghệ thuật là sao chép hiện thực, nhưng ngày nay người ta nhìn hiện thực không như trước, hình ảnh được thấy, qua nhãn giới và tư duy của họa sĩ không còn “như thật” mà mọi tác phẩm cổ điển đã làm. Nói cách khác, hội họa không ngừng tìm kiếm những hướng đi mới, khai mở những vẻ đẹp khác. Để thực hiện công việc này, các trường phái lần lượt khai sinh: biểu hiện, dã thú, lập thể, trừu tượng, hậu hiên đại… Họa sĩ cận đại, đương đại đã đang và sẽ khai phá, dấn thân.
   
Chúng tôi đi và xem cả ngày, thế mà vẫn chưa hết một phần ba tác phẩm đang được trưng bày. Khi ra về, ngang qua hành lang trên cao, người bạn chỉ mái vòm bằng kính hình Kim Tự Tháp bên ngoài dãy tường thấp chói trong nắng, nói:
   
“Đã một thời, báo chí, truyền thông, dư luận tranh cãi rùm beng công trình kiến trúc kia.”
   
Tôi nói:
   
Moi cũng biết chuyện này.”
   
“Đồng thuận thì ít, đại đa số đều phản bác. Người ta cho rằng công trình mang tính hiện đại kia không phù hợp với cảnh quan cổ điển chung. Chả khác gì trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Ví von kiểu Việt Nam, tựa anh nông dân áo bà ba quần đùi lại đi diện veston bảnh chọe!”
   
Moi thấy có sao đâu, đẹp chứ.”
   
Moi cũng nghĩ thế. Một phần nó như điểm nhấn trong tranh, giữa màu lạnh chủ đạo có một vệt màu nóng đâu đó, làm sinh động, gây chú ý và bất ngờ ở người xem. Một phần do quen mắt.”
   
Trời ngả sang chiều, nắng xô ngã bóng râm tòa bảo tàng phủ gần trọn đại lộ tấp nập xe cộ. Nhìn những chiếc xe chuyển dịch chậm như rùa, Lâm nghĩ, thảo nào đất nước này phương tiện giao thông công cộng rất phổ biến và tiện lợi. Vô số tuyến métro ngang dọc dưới lòng đất, đưa mọi người đến mọi ngóc ngách xa gần. Tôi cũng quen biết một người bạn vong niên, lính thợ thời Pháp thuộc, định cư ở đây trên bảy mươi năm, vẫn dùng métro mỗi khi muốn đến đâu, không có xe hơi, không biết lái xe. Tôi ngạc nhiên:
   
“Sao thế?”
   
Ông bạn vong niên cười, nụ cười móm mém, dù tuổi tác không quá cao, có lẽ vì vài chiếc răng cửa đi vắng. Chả hiểu không có tiền làm răng giả hay bản tính lười nhác, bất cần:
   
Moi thuộc giai cấp khố rách áo ôm, ở chung cư, garage tập thể, bọn con nít “rệp” ( tiếng lóng, bỉ thử, ám chỉ dân ngụ cư gốc Ả Rập) rất mất dạy, chúng sẽ rạch ngang vạch dọc không chừa bất cứ xe nào, của ai, vô phúc hiện diện trong địa phận công cộng ấy. Thêm nữa, ra đường tìm parking khó như ngậm ngải tìm trầm, cảnh bò tới de lui năm ba trăm mét tìm một chỗ đậu bên vỉa hè là chuyện bình thường. Còn nạn kẹt xe nữa chứ, cuốc bộ có khi còn nhanh hơn. Sắm xe làm gì thêm phiền. Métro vừa rẻ vừa tiện, muốn đến bất cứ nơi nào cũng được.”
   
Paris và nhiều thành phố khác của Pháp, vấn nạn giao thông là chuyện đau đầu vô phương giải quyết. Chẳng cứ gì ông bạn già của tôi, ngoại trừ những người có thu nhập cao, có nhà riêng, sắm xe hơi làm phương tiện di chuyển, còn thì hầu hết đều đi métro, họ không sắm xe chả phải mua không nổi, chỉ vì như ông bạn nói, lợi bất cập hại, rất phiền.
 
– Khánh Trường
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có lẽ ngày xưa các bậc sinh thành nên đặt tên tôi là Măng mới hợp với lẽ trời. Tôi khoái măng một cách kỳ lạ trong khi thằng con trai tôi lại ghét thậm tệ. Không biết có phải loại hình cha ăn mặn con khát nước không. Măng làm cách chi tôi cũng thích dù chỉ là thứ măng ngâm trong hũ bán đầy chợ. Nhưng món tôi hẩu nhất là món bún măng vịt. Nghe nhà hàng nào có bún măng vịt là tôi tìm tới, như tìm tới nhà người thương. Bún măng vịt với đĩa gỏi thịt vịt nằm xếp lớp trên lớp rau bên cạnh chén nước mắm gừng trông cứ như là Bá Nha của đôi mắt Tử Kỳ là tôi.
Hãy thử kiểm tra lại ký ức của bạn xem. Trong bộ phim kinh điển The Empire Strikes Back, Darth Vader đã nói gì với Luke Skywalker? Bộ sách thiếu nhi về gia đình nhà gấu có tựa đề là Berenstain Bears hay Berenstein Bears? Và trên logo của thương hiệu phô mai Con Bò Cười, liệu con bò có đeo khuyên mũi? Nếu câu trả lời của bạn là “Luke, ta là cha của con,” “Berenstein,” và “Có,” thì xin chia buồn, ký ức đã đánh lừa bạn. Darth Vader thực chất chưa bao giờ nói câu đó; tên của gia đình gấu luôn được viết là “Berenstain”; và con bò trên logo phô mai nổi tiếng chưa từng đeo khuyên mũi.
Giữa lúc tỷ lệ sinh sản (birth rates) tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới liên tục sụt giảm, từ giới công nghệ ở Thung lũng Silicon đến các viên chức tại Tòa Bạch Ốc đều đồng loạt lên tiếng cảnh báo rằng dân số giảm nhanh có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính quyền Trump từng tuyên bố đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích người dân sinh con đẻ cái, nhất là khi tổng sinh suất (Total Fertility Rate, TFR) hiện đã giảm tới 25% so với năm 2007 – xuống mức thấp nhất lịch sử. Tuy nhiên, theo các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu về sinh sản, đời sống gia đình và khuynh hướng sinh con: dân số sẽ không giảm ngay, cũng không phải chắc chắn sẽ giảm, và nếu có thì cũng không phải là điều bi đát.
Trong một lần tới thăm Hải Học Viện Nha Trang cách đây khoảng vài chục năm, tôi đã thấy một cặp sam sống trong một lồng kính. Phải thú nhận là tôi rất ngạc nhiên. Chúng dính vào nhau, một con trên một con dưới. “Dính như sam” thì tôi thuộc nằm lòng nhưng không ngờ chúng dính cứng như vậy. Dò hỏi nhân viên của Viện, tôi được cho biết hai con dính vào nhau như vậy suốt ngày đêm. Con đực kính thước chỉ nhỏ bằng nửa con cái luôn nằm dính trên lưng con cái. Cứ như mẹ cõng con đi chơi. Thân nam nhi mà coi bộ lép vế. Đeo dính sát sạt như vậy ngày đêm thì teo tắt là cái chắc. Vết đôi chân con đực bám vào hằn rõ trên mai con cái. Cùng sống chết với nhau như vậy nên ngư dân thường bắt được cả cặp. Nếu chỉ bắt được một con, gọi là sam độc, họ thả trở lại biển. Chẳng phải nhân nghĩa chi nhưng vì họ không bán được cho người ta làm thịt. Thực khách luôn mua làm thịt cả cặp, ăn một con họ tin rằng sẽ bị độc. Vậy sam sống cùng sống, chết cùng chết, lúc nào cũng dính nhau. Như…sam!
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.