Hôm nay,  

Chuyện Gà Tây

22/11/202117:17:00(Xem: 3204)

 

GA TAY
Gà Tây. (www.pixabay.com

 Lá đổ ào ạt, từng mảng lá rụng đồng loạt, từng bựng lá bay như đàn bướm. Trời cuối thu, mặt đất phủ đầy lá, đâu đâu cũng lá. Rừng cây đã gần trơ trọi, những khoảng trống, những thân cây như bộ xương cắm trên mặt đất cố vươn những cánh tay lên hư không. Lão Omeehar bệ vệ trong bộ lông xanh đen pha xám, mào và tích lòng thòng chảy dài. Lão nặng đến ba mươi cân Anh chứ ít sao, lúc nào cũng khệnh khạng dẫn ba mụ vợ và đàn con đi loanh quanh kiếm ăn. Ba mụ vợ nhỏ con hơn hẳn, lông cũng xỉn màu chứ không diêm dúa như lão. Khu rừng sồi cạnh đồng cỏ này là lãnh địa của lão ta, lão luôn đảo mắt canh chừng cho vợ và con. Trong lúc kéo được con giun từ trong đám mùn lá, lão chợt  nhớ ra mùa này là mùa kiếp nạn của giống nòi, cũng vào thời gian này, năm ngoái bọn người đến đây  hốt trọn cả ổ. Lão may mắn chạy thoát, sau đó mới cặp lại ba bà này và sanh ra một đám nhóc tì mới. Lão vẫn nhớ như in cái cảnh tượng kinh hoàng đó, cho nên lão cảnh giác cao độ, hễ có tiếng động hay bóng dáng bọn người là lập tức kêu toáng lên để cho cả đàn biết, tuy vẫn miệt mài kiến ăn nhưng lão không quên nhắc nhở:

- Chúng mày đừng có ham mồi mà quá mà toi mạng, hãy cẩn thận, hễ thấy bóng dáng lũ người là phải lủi ngay lập tức! Tìm chỗ kín ẩn trốn, mùa này lũ người đang săn bắt chúng ta để làm cỗ cho buổi lễ của bọn họ.

 Ba bà vợ gục gặc đầu ra vẻ hiểu chuyện, mắt ngẩng lên nhìn dáo dác một tí, miệng kêu cục cục liền cúi xuống bới tìm thức ăn ngay, xem ra lời cảnh tỉnh của lão Omeehar chẳng đủ đô để gây được sự chú ý của ba bà vợ và đàn con. Bọn chúng cứ tí tởn, đủng đỉnh chẳng chút sợ chi, có lẽ bọn chúng chưa từng đổ lệ nên hổng biết kiếp nạn thảm khốc của giống nòi.

 Lão Omeehar dẫn cả bầu đoàn thê tử đi qua một cánh rừng khác, ở đấy gặp gia đình lão Lakoonee và gia đình chú em Chatoogar. Các bà vợ lập tức xúm lại cục cục tám đủ thứ chuyện trên rừng dưới rú. Bà Cherooko, vợ cả của lão Omeehar cất giọng khào khào:

- Này các bà, ở đây có nhiều thức ăn không? Tôi bảo lão chồng tôi phải đến gần trang trại của lũ người mới có nhiều thức ăn, ở đấy lũ người làm rơi vãi nhiều kê, bắp và các loại hạt khác. Khổ nỗi lão chồng tôi nhát như thỏ đế, lão bảo chốn ấy nguy hiểm nên chẳng chịu đến đó.

 Mụ Vajero, vợ lão Lakoonee hưởng ứng:

- Bà nói đúng đấy, gần trang trại của lũ người mới có nhiều ngô, thóc rơi vãi, đến đấy tha hồ ăn. Ông nhà tôi cũng giống lão chồng của bà, lúc nào cũng sợ sệt, lão cấm ngặt cả nhà không được bén mảng đến gần trang trại.

 Mụ vajero nói xong núng nính đi một vòng rồi lại tám với bà Cherooko:

- Bộ cánh của bà năm nay đẹp đấy!

- Cảm ơn bà, có lẽ năm nay ăn uống đầy đủ nên lông cũng mướt ra. Bà thấy đấy, lão chồng tôi cứ như là con công đực, bộ lông, tích, mào của lão rực rỡ sắc màu, lão diện thấy mồ!

 Miệng nói thế nhưng trong lòng mụ ta đầy sung sướng hãnh diện, chất giọng của mụ thể hiện ra tất cả, rõ ràng mụ cố khoe chồng đấy thôi! Mà sự thật cũng đúng vậy, nhờ cái mã bề ngoài ấy mà lão tán em nào là em ấy đổ, mụ mê lão cũng vì thế, rồi mụ Kaorosee và mụ Betoonar cũng mê đắm chấp nhận làm vợ bé. Một lát sau họ nhà gà tây từ các khu rừng lân cận kéo đến, một số từ các đồng cỏ cũng tụ tập lại thật đông. Lão Omeehar nhảy lên mô đất cao, dõng dạc cất tiếng:

- Này người anh em thân mến, này họ nhà gà tây chúng ta! Dòng tộc chúng ta ở đây đã bao đời, đất này của tổ tiên chúng ta truyền lại. Từ khi lũ người khám phá ra và kéo đến đây, bọn họ cướp quyền làm chủ và bách hại chúng ta. Tôi còn nhớ lời cụ tổ truyền lại, năm ấy khi lũ người kéo đến xứ sở này, bọn họ chịu không nổi mùa đông khắc nghiệt nên bỏ mạng gần hết. Những kẻ sống sót nhờ thổ dân bản địa giúp đỡ thực phẩm, chỉ cách trồng trọt và cách tồn tại, đến mùa thu năm sau, bọn họ gặt hái thu hoạch mùa màng rất đầy đủ sung túc. Bọn họ làm lễ tạ ơn trời đất, tạ ơn mùa màng, lễ vật bọn họ không chỉ là ngô, khoai tây, bí ngô… mà còn có cả thịt của chúng ta. Kể từ đó về sau, năm nào bọn họ cũng tổ chức lễ tạ ơn và cũng từ đó xảy ra kiếp nạn cho dòng tộc chúng ta. Khi lũ người đến xứ này còn ít, bọn họ săn bắt chúng ta, tuy nhiên với cái mức độ không đáng là bao, chúng ta có thể chấp nhận được, coi  như là sự hao hụt tự nhiên. Tuy nhiên khi lũ người ngày càng đông, mức độ săn bắt càng khốc liệt hơn, việc này đe dọa sự tồn tại của giống nòi, có nhiều loài đã tuyệt diệt, chẳng hạn như họ nhà bò bison. Khi họ gà tây chúng Ta trong thiên nhiên không còn nhiều nữa. Lũ người lập ra những trại nuôi gà tây, mỗi mùa lễ tạ ơn, lũ người giết đến mấy mươi triệu mạng gà tây. Bọn họ giết mấy mươi triệu mạng sống để mừng một cái lễ tạ ơn, không biết ơn ai mà chúng ta phải chịu cái nạn này?

 Lão Omeehar nói một hơi dài, không biết có chuẩn bị trước hay không mà rất trôi chảy và đầy tính thuyết phục. Lão xúc động quá nên nghẹn lời, khóe mắt lão rơi hai giọt nước trong vắt như hạt sương trên ngọn cỏ sớm mai. Phải công nhận lão nói hay quá, thật quá làm lay động cả lũ gà tây, bọn chúng rù rì rúc rích với nhau, nhiều kẻ cảm động mạnh nên mặt mày đỏ gay. Lão đệ Lakoonee cất giọng khàn khàn:

- Kiếp nạn của dòng tộc ta, mỗi năm vào mùa lễ này, mấy mươi triệu sinh mạng bị giết thịt, tại sao lũ người tạ ơn mà lại đi giết chúng ta? Xem ra cái tạ ơn này chẳng đem lại ơn mà chỉ sanh oán.

 Đám gà tây lào xào tao tác, bọn chúng ngừng tìm thức ăn, trong cái giây phút tỉnh ngộ hiếm hoi này chúng biết sợ, biết lo, biết thao thức vì giống nòi. Chỉ tiếc là khoảnh khắc thức tỉnh ngắn ngủi quá, chỉ chừng phút chốc là lập tức quên ngay. Chúng lại tiếp tục tìm kiếm thức ăn, tranh nhau ỏm tỏi, đánh nhau dữ dội. Mụ vợ lão Omeehar và một mụ gà tây xa lạ khác tru tréo giằng xé giành nhau một con giun. Mụ nào cũng cố nuốt phần nhiều hơn, chẳng ai chịu ai, trợn mắt, xòe cánh, gương móng sẵn sàng ẩu đả. Con giun đứt làm đôi, mỗi mụ nuốt một phần. Mụ Cherooko điên tiết chửi:

- Con bà nó! Mày dám giựt giun của bà à? Cà chớn là bà chơi tới bến, bà chẳng ngán con nào!

Mụ gà tây xa lạ kia cũng chẳng vừa:

- Giun nào của bà? giun của đất, của rừng, ai bắt được ăn! Bà làm gì tôi nào? Bà muốn chơi kiểu nào tôi cũng chìu!

 Cả hai mụ đều hầm hè gầm ghè nhau, những lời đầy tâm huyết của lão Omeehar vừa lọt vào tai này đã bay qua tai kia mất rồi, chẳng có chút nào đọng lại trong đầu hay trong trong tim. Mà nào chỉ có hai mụ  quên, cả bọn gà tây cũng thế thôi, xúc động một tí, tỉnh thức một tí khi nghe lời tâm huyết cảnh tỉnh nhưng quay lại kiếm mồi là lập tức quên béng ngay. Cả bọn lao vào tranh ăn, đánh nhau vì con mái, cấu xé nhau vì kẻ kia có bộ mã đẹp hơn, chơi nhau tới bến vì thằng nọ có tiếng kêu nổi trội, hạ gục nhau vì lãnh địa...Lão Omeehar lắc đầu, nào phải ai xa lạ, ngay cả vợ con lão cũng thế kia mà, lão còn ngơ ngẩn không biết xử lý sao thì chú em Chetoogar khều khều lão Omeehar và lão Lakoonee nói nhỏ:

- Kiếp nạn của dòng tộc chúng ta có phải đáng lo lắng lắm không? Tôi nghe người ta chỉ giết gà tây nuôi ở trang trại thôi mà! Lũ gà tây công nghiệp ấy nhiều vô số, không gây ảnh hưởng gì chúng ta!

 Lão Omeehar lấy đôi cánh vỗ vỗ đầu chú em:

- Chú em khờ quá, tuy lũ người giảm săn bắt gà tây tự nhiên nhưng kiếp nạn của dòng tộc vẫn nguy hiểm lắm. Còn bọn gà tây công nghiệp tuy có khác chút ít với chúng ta nhưng cũng là dòng giống, cũng là mạng sống. Lẽ nào bọn họ giết mấy mươi triệu mạng sống mà chú em cho là không quan trọng sao?



 Lão đệ Lakoonee phụ họa:

- Không phải chỉ giết thảm, ngay cả sống cũng thê thảm lắm, hàng chục triệu sinh mạng chen chúc trong những cái chuồng kín mít, ăn thức ăn công nghiệp, bị chích thuốc tăng trưởng và các loại hóa chất khác. Đời sống trong chuồng công nghiệp là một vòng tròn kín từ khi ra đời cho đến khi giết thịt, những chuồng trại ấy đích thị là địa ngục trần gian, hàng triệu con gà con sẽ được máy sàng lọc, con nào không đủ tiêu chuẩn sẽ bị xay nát làm thức ăn cho những con khác, những con đủ tiêu chuẩn cứ đứng trong chuồng, chỉ có ăn, bài tiết và chờ đủ ngày thì giết thịt.

 Lão ngưng một tí, tằng hắng rồi lại tiếp:

- Những con gà tây công nghiệp không thể sống trong môi trường tự nhiên, những đặc tính của gà tây tự nhiên đã mất gần hết rồi, chúng chỉ là những cái bị thịt ăn, thở và bài tiết. Thịt gà tây công nghiệp dành cho đại chúng, còn những thành phần giàu có hay những kẻ sành điệu thì vẫn thích thịt gà tây tự nhiên, bọn chúng sẵn sàng bỏ ra nhiều tiền để săn bắt hay mua gà tây tự nhiên mà ăn.

 Trong lúc lão Omeehar, Lakoonee, và chú em Chetoogar đàm đạo chuyện tồn vong của giống nòi, lũ gà tây vẫn nhởn nhơ như chẳng có việc gì xảy ra. Bọn chúng chẳng quan tâm gì đến tiền đồ hay vận mệnh của họ nhà gà tây, có không ít kẻ còn cười cợt chế giễu. Thằng Umeka bĩu môi:

- Lo bò trắng răng, cứ vui chơi hưởng thụ đi, chuyện ấy cứ để bọn người lo. Làm gì có chuyện tuyệt diệt, còn chuyện lũ gà tây công nghiệp lại càng chẳng đáng quan tâm, bọn ấy không cùng đẳng cấp với chúng ta.

 Một đám đông ồn ào hưởng ứng, thằng Umeka được thể càng hung hăng hơn, nó kêu gọi:

- Anh em ơi, tội gì chúng ta không hưởng thụ ăn chơi cho sướng đời, đời có bao nhiêu đâu? Những chuyện bao đồng cứ để lão già Omeehar và những kẻ như lão ấy lo!

 Thằng Umeka dứt lời, đám choi choi, những lão sồn sồn, mấy em chân dài móng đỏ… hò reo rần rần:

- Chúng ta sống phải hưởng thụ ăn chơi cho đã đời, chuyện dòng tộc, lãnh địa có người khác lo.

 Bọn chúng tụ thành nhóm theo sở thích rồi kéo ra bìa rừng giao phối, ăn giun dế ,hạt cỏ… Đám  theo thằng Umeka đi rồi, số còn lại tuy nhiều hơn nhưng lừng khừng chẳng nghe theo lão Omeehar nhưng cũng chẳng chấp nhận lời thằng Umeka. Cái đám đông này rất bạc nhược và dễ lung lay, khi nghe lời hùng biện của lão Omeehar thì cho là đúng nhưng khi gặp lời xảo biện của thằng Umeka thì cũng cho là phải, Chuyện dòng tộc, lãnh địa tuy có biết đến nhưng chỉ với vài con giun, nắm hạt kê là lập tức quên béng ngay thôi, sẵn sàng đấu đá nhau chí tử để giành những cái món bé tí đó. Lão Omeehar kiên nhẫn, chờ lắng xuống một chút, lão lại lên tiếng, giọng lão trầm lắng hơn, pha chút ngậm ngùi: 

- Lũ người buồn cười thật! Chúng ta đang sống tự do ở trong rừng, chẳng gây hại ai ấy thế mà bọn họ săn đuổi chúng ta, giết chúng ta để ăn thịt, bọn họ kháo nhau thịt gà tây tự nhiên ngon hơn gà tây công nghiệp. Có một điều mỉa mai hơn hết, mỗi năm họ bắt một kẻ to nhất và đẹp nhất trong chúng ta để đem về dinh quốc chủ làm lễ tha mạng. Đời sao tréo ngoe? Kẻ làm hại đi tha tội cho kẻ bị hại, chúng ta có tội tình gì để được quốc chủ tha mạng?

 Đám đông lại hưởng ứng vỗ cánh phành phạch làm cho đám lá khô dưới chân xào xạc bay tan tác. Chúng đồng thanh gào to:

- Chúng tôi có tội tình gì? Chúng tôi chẳng cần ai tha mạng, hãy để chúng tôi sống tự do!

 Cánh rừng rụng hết lá nên trống trải, tiếng gào của chúng theo gió bay đi thật xa, lan qua đồng cỏ, men theo sông suối, tỏa đến cả những vùng vốn quanh năm thâm u vì lá rừng. 

 Buổi sáng ngày lễ tạ ơn, dinh quốc chủ trang hoàng thật đẹp, đầy đủ sắc màu gợi nhớ một mùa màng bội thu. Dinh quốc chủ cũng như mọi nơi khác của xứ sở này, tất cả đã sẵn sàng cho mùa lễ cuối năm. Trước sân dinh quốc chủ, một chú gà tây to béo và trắng muốt, đuôi xòe tròn như nan quạt, mào tích dài lòng thòng đỏ tươi. Chú gà tây đang chờ quốc chủ ra làm lễ tha mạng. Cánh phóng viên, nhà báo của các cơ quan truyền thông đã túc trực đông đảo, những nhân viên an ninh và phục vụ đi lại lăng xăng tíu tít. Chú gà tây tròn xoe mắt nhìn, dường như chú ta cảm nhận có việc chi đó sắp xảy ra nhưng chú ta không biết là việc gì. Chú ta là kẻ may mắn hơn mấy mươi triệu đồng loại của chú trong mùa lễ này. Chú sẽ được quốc chủ tha mạng, hình ảnh chú sẽ được người ta phát lên trên truyền thông, trên mạng xã hội. Cả thế giới đều thấy chú may mắn khi được quốc chủ tha mạng. Một sự kiện không thể thiếu trong mùa lễ này của xứ sở. Chú không thể nào biết được, ngoài sân thì lễ tha mạng cho chú rất trang trọng nhưng cũng lúc ấy trong đại sảnh, trên bàn tiệc có mấy kẻ đồng loại của chú đã bị quay vàng ươm, đang chờ quốc chủ và bộ sậu làm lễ tha mạng xong sẽ vào khai tiệc. Chú quả thật may mắn, bị bắt từ rừng đem về dinh để làm lễ tha mạng. Cả thế giới loài người thấy chú được tha mạng trong khi mấy mươi triệu đồng loại của chú bị chết thảm, bị quay trong những cái lò nướng hiện đại hoặc bị hầm nhừ trong những cái nồi tân tiến mà chẳng ai thấy biết. Chú được tha mạng mừng lễ tạ ơn, đồng loại chú bị giết thịt cũng vì lễ tạ ơn.

 Dinh quốc chủ thật tưng bừng, thật vui nhộn rộn ràng. Chú bé kenny J, con trai quốc chủ đến bên chú gà tây sắp được tha mạng. Chú bé ôm lấy gà tây vỗ về:

- Cậu may mắn lắm đấy, lát nữa thôi, ba tớ sẽ tha mạng cho cậu. Cậu hãy về đồng cỏ rừng hoang sống vui vẻ nhé!

 Chú bé vuốt bộ lông trắng muốt mướt rượt của gà tây, chú mân mê cái tích dài tòng ten của gà tây không chán. Mái tóc vàng hoe của chú bé cạ cạ vào bộ lông trắng gà tây sao mà hài hoài và đẹp đến lạ lùng. Chợt chú bé nắm tay lão trợ lý thân cận của quốc chủ lắc lắc:

- Tại sao chỉ tha mạng cho mỗi con gà tây này mà không tha mạng cho những con gà tây khác?

 Lão trợ lý cười với Kenny.

- Không được, nếu tha mạng cho hết thì lấy gì ăn để mừng lễ tạ ơn?

 Chú bé vẫn không chịu:

- Chúng ta có thể ăn khoai tây, bánh mì, cháo kê, bí ngô… và nhiều món khác nữa!

- Không thể được! Truyền thống chúng ta là lễ tạ ơn phải ăn gà tây.

- Mình tạ ơn sao lại phải ăn chúng? Chúng hiền lành và dễ thương thế kia mà.

- Khi tổ tiên chúng ta đến đất này, chúng ta đã ăn khoai tây, bánh mì và gà tây để sống sót và giờ đã là truyền thống.

- Chúng ta giết chúng để ăn thịt sao lại làm lễ tha mạng chúng?


 Lão trợ lý đuối lý, không biết nói thế nào cho chú bé thông, vả lại y cũng bận rộn với trách nhiệm của y, phải hoàn tất những khâu cuối chuẩn bị cho quốc chủ ra làm lễ tha mạng gà tây. Lão ta chốt hạ:

- Cháu muốn biết thì hãy gõ vào google để tìm hiểu thêm nhé! Chú đang đang bận cho buổi lễ, không có thời gian để trò chuyện với cháu, hẹn gặp cháu sau nhé!

 Nói xong lão rảo bước đi ngay, chú bé vẫn quyến luyến bên con gà tây không muốn rời, cái khoảnh khắc cảm thông của chú bé vô tình lọt vào ống kính của máy chụp hình và máy quay phim của đám phóng viên, chẳng mấy chốc hình ảnh này tràn ngập khắp các màn ảnh trên toàn thế giới, mạng xã hội cũng dậy sóng theo hình ảnh này, cái hình ảnh ngây thơ, trong sáng và nhân bản trở thành tin nóng nhất của chương trình thời sự, có vô số lời bình và bấm nút yêu thích trên mạng xã hội. Các gia đình ăn tiệc mừng lễ tạ ơn, vừa ăn thịt gà tây vừa tấm tắc khen ngợi hình ảnh chú bé con ôm chú gà tây được tha mạng trong buổi lễ tạ ơn.


TIỂU LỤC THẦN PHONG 

Ất Lăng thành, 11/21

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.