Hôm nay,  

Phật Tích

09/05/202219:45:00(Xem: 3516)

but_tung kinh

 


Chuyện tích xưa, nơi kinh thành Xá Vệ

Cung điện nguy nga, lộng lẫy cõi nhân gian

Vua Tịnh Phạn, trên ngai vàng tối thượng

Hoàng hậu Ma Da, ngôi phượng các uy nghi.

 

Nơi thượng giới, Đức Nhiên Đăng cổ Phật

Soi thấu muôn loài, nơi hạ giới trầm luân

Ngài kiếm tìm, hàng Thánh Đức hiển linh

Truyền Bồ Tát, Phật Thích Ca giáng trần.

 

Một ngày kia, nơi kinh thành Xá Vệ"

Thư các thâm nghiêm, thiên giới báo điềm lành

Hoàng hậu Ma Da sẽ hoài thai Thái Tử

Đức Thế Tôn, đại giác ngộ Đản Sanh.

 

Hoàng hậu Ma Da ngưuời "khai hoa nở nhụy"

Con đầu lòng, Thái Tử  Tất-Đạt-Đa

Hoàng Hậu qua đời, đột ngột mấy hôm sau

Lìa nhân thế, lên Cung Trời Đao Lợi.

 

Đoàn tùy tùng, đưa Ngài về Xá Vệ

Đến cổng thành, quân sỹ tướng cung nghinh

Rước kiệu Ngài, vào kinh thành tráng lệ

Gặp Vua Cha, Tịnh Phạn ngự ngôi cao.

 

Vua khoản đãi, tiệc tùng mừng Thái Tử

Mời công hầu, khanh tướng, khắp lân bang

Các đạo sỹ, Bà La Môn thượng phẩm

Chúc tụng Ngài, Thái Tử Tất Đạt Đa.

 

Tất Đạt Đa, nơi cung vàng điện ngọc

Sống êm đềm, trong nhung gấm cao sang

Nhân cách Ngài, vốn hiền từ, đôn hậu

Lâm Tỳ Ni, vườn thượng uyển dấu chân Ngài.

 

Thái Tử, Ngài, rất thông minh đĩnh ngộ

Thạo kiếm, cung, thông triết lý cao siêu

Luận văn chương, thi phú, rất phi phàm

Lầu kinh sử, thánh thư điều binh, tướng.

 

Một ngày kia, nước lân bang kén rể

Công chúa Đương Triều, vừa đến tuổi cập kê

Thái Tử lên đường, vâng Thánh lệnh Vua cha

Đoàn hộ giá, ngựa xe cùng phẩm vật.

 

Vua lân bang, đãi đằng đoàn dự thí

Nào Vương Tôn, Hoàng Tử khắp xa, gần

Tất Đạt Đa, Ngài song toàn văn võ

Thắng cuộc thi, thành Phò Mã đương kim.

 

Lời chúc tụng, râm ran trong tiệc cưới

Phò Mã đương triều, làm lễ kính ơn trên

Da Du Đà La, cùng Thái Tử nên đôi

Đoàn hộ giá, trở về Thành Xá Vệ.

 

Rồi ngày tháng trôi qua, Da Du Đà La sanh con quý

Thái Tử vui mừng, trong hạnh phúc vô ưu

Vua Tịnh Phạn, thiết triều mời quốc khách

Mừng La Hầu La, Thế Tử cõi Vương triều.

 

Một ngày nọ, du hành nhân thế

Bốn cổng thành, sinh, bệnh, lão thảm thương

Và nơi kia, tử thi nằm co quắp

Cảnh cơ hàn, manh áo rách che thân.

 

Ngài tra vấn, người hầu trai Sa Nặc

Những người kia, hàng dân dã bần cùng

Còn như ta, là Đương Kim Thái Tử

Sa Nặc ơi, ta có ngoại trừ không?

 

Sa Nặc đáp, rằng Ngài không ngoại lệ

Như muôn loài, vạn vật chốn trần gian

Cũng tử, sinh, cũng già, bệnh luân hồi

Không tránh khỏi, dù Ngài là Thái Tử.

 

Về Điện Ngọc, Ngài hằng đêm thao thức

Suy nghĩ cạn cùng, tìm nguyên lý cao thâm

Da Du Đà La, công chúa đến hỏi han

Ngài lơ đễnh, lắng sâu vào tư tưởng.

 

Vua Tịnh Phạn, lo rầu không kể xiết

Nên loan truyền, mời các bậc danh y

Ban vàng, bạc, ngựa, xe cùng châu báu

Chế linh đơn, thần Dược cứu Vua con.

 

Nhưng Thái Tử, vẫn không ngừng suy ngẫm

Ngài thưa trình, cùng Tịnh Phạn Vua Cha

Nêu ước nguyện, xuất cung tầm Đạo học

Mong muốn viên thành, chánh quả độ Nhân Sinh.

 

Vua Tịnh Phạn, phừng phừng cơn thịnh nộ

Truyền quân hầu, quản thúc Tất Đạt Đa

Và ngăn cản, Ngài không rời cung cấm

Bỏ ngai vàng, đi học Đạo Tầm Sư.

 

Cùng Sa Nặc, rời kinh thành Xá Vệ

Ngựa phi nhanh, lao vùn vụt trên đường

Rong ruổi đêm ngày, xa khuất nẻo trời mây

Xuyên làng mạc, băng núi dài sông rộng.

 

Đến bìa rừng, Ngài ghìm cương xuống ngựa

Trao hoàng bào, mặc lấy áo gai thô

Ngài dặn dò, người hầu trai lần cuối

Sa Nặc ơi, khuyên ngươi hãy đi xa

 

Ngài ân cần, thốt lên lời tha thiết

Ngươi theo ta, cũng đã bấy lâu rồi

Hoàng bào này, ngươi đổi vài nén bạc

Để phòng thân trong những lúc cơ hàn.

 

Sa Nặc khóc, trong giụa giàn nước mắt

Thái Tử ơi, xin trở lại Kinh Thành

Sao lìa bỏ uy quyền và ngôi báu

Chọn nơi này, chốn cùng cốc thâm sơn.

 

Sa Nặc ơi, hãy lau dòng nước mắt

Hãy vơi đi, bao thương cảm trong lòng

Hãy để ta, lìa cung vàng cõi tạm

Mong cầu tìm, nguồn chân lý cao siêu.

 

Ngài cầu học, bậc đại tiên, hiền triết

Bậc cao minh, xuất chúng trí siêu phàm

Bậc đại sư cái thế chốn thâm sơn

Bậc ẩn sỹ, nơi làng quê hẻo lánh.

 

Ngài làm bạn, cùng chim muông, thú dữ

Chốn rừng thiêng, suối mát khí trong lành

Ngồi tịnh thiền, bên gốc cây nghìn tuổi

Mặt trời lên, trăng tròn, khuyết, sao khuya.

 

Ngài thực hành, pháp môn tu khổ hạnh

Thân thể gầy gò, tiều tụy tựa xương khô

Nhấm nháp qua ngày, vài quả khô nhặt nhạnh

Năm tháng hao mòn, Ngài bền chí chuyên tâm.

 

Đệ tử Ngài, Kiều Trần Như năm vị

Theo pháp môn, tu khổ hạnh kiên trì

Không nản lòng, xao nhãng chí tâm tu

Cầu tinh tấn, mong đắc thành chánh quả.

 

Ngài phát nguyện, gắng suy tìm chân lý

Cội Bồ Đề, ngồi tĩnh tọa hành thâm

Ngài quán chiếu, lý vô thường, nhân quả

Luật trả vay, vay trả kiếp luân hồi.

 

Vì mải miết, gắng soi tìm chánh pháp

49 ngày, Ngài không uống không ăn

Thân thể hao mòn, da bọc xương tiều tụy

Đôi mắt mờ, chân bủn rủn tay run.

 

Ngài suy xét, pháp môn tu khổ hạnh

Không đạt thành, đạo lý quá cao thâm

Nếu thân này, cùng chánh Tâm hiện hữu

Mới viên thành, chánh giác độ Nhân Sinh.

 

Rồi ròng rã, bốn mưoi năm thuyết pháp

Giảng Đạo Độ Đời, Ngài điển nhãn khai thông

Cõi Ta Bà, Ngài vân hành cứu độ

Nơi Đạo Tràng, Ngài truyền pháp tùy duyên.

 

Đã bao đời, đã hằng thiên niên kỷ

Đạo pháp Ngài, gieo hạt giống Từ Bi

Trượng pháp Ngài, tỏa hào quang Hỷ Xả

Lưu dấu muôn đời, vạn kiếp Đức Từ Tôn

 

-- Chúc Thanh & Chúc Liên

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.