Hôm nay,  

Ngôn Ngữ – Chuyện Đó Đây

27/10/202209:59:00(Xem: 3745)
Tạp ghi

language-post

 

 

Thông Dịch Viên Tí Hon

 

Cu Bê bốn tuổi, đang năm thứ hai trong vườn trẻ Am Goldstein. Cu Bê nói tiếng Việt, tiếng Đức giỏi ngang nhau. Đi học về, cu Bê hào hứng kể chuyện:

 

– Bữa nay trên trường con có một đứa Chinese. Nó người Tàu, mới vô trường. Nó không nói được tiếng Đức. Cô giáo phải kêu con giúp.

 

Mấy ngày sau đó, cu Bê tường thuật đều đặn:

 

– Nó không thích chơi ngoài sân cát. Nó rất ghiền chơi xếp hình...

 

Mẹ cu Bê hỏi:

 

– Sao Bê rành chuyện thằng nhỏ đó vậy?

 

Cu Bê huyên thuyên:

 

– Tại nó không biết nói tiếng Đức. Mà trong trường, chỉ một mình con hiểu tiếng Tàu thôi.

 

Mẹ cu Bê tức cười:

 

– Con học tiếng Tàu hồi nào?

 

Cu Bê lắc đầu:

 

– Con không học, nhưng con hiểu tiếng Tàu thằng đó nói. Mỗi khi nó muốn gì, nó nói với con, con übersetze lại cho cô giáo.

 

Mẹ cu Bê gục gặc:

 

– Ừ, con dịch qua tiếng Đức cho cô giáo nghe.

 

Cu Bê tiếp:

 

– Rồi cô giáo cần biểu nó làm gì, cô giáo nói với con, con dịch lại cho nó.

 

Mẹ cu Bê thắc mắc:

 

– Con nói tiếng Tàu ra sao với nó?

 

Cu Bê tỉnh queo:

 

– Thì cũng như tiếng Việt thôi. Nó hiểu con hết trơn hà.

 

Mẹ cu Bê vẫn băn khoăn:

 

– Hay nó là người Việt?

 

Cu Bê chắc chắn:

 

– Dạ không. Cô giáo nói, nó là người Tàu, Chinese. Mẹ nó cũng Chinese luôn.

                 

Mẹ cu Bê ngẫm nghĩ, có lẽ gia đình đó là người Việt gốc Hoa. Hôm đến họp phụ huynh, mấy cô giáo gặp mẹ cu Bê, khen cu cậu nức nở. Cu Bê thiệt là thông dịch viên giỏi. Không chỉ thông dịch cho thằng bé, mà cả luôn cho mẹ thằng bé. Bà ấy nói tiếng Đức sơ sơ, có lẽ accent quá nặng. Hôm bà ấy đến hỏi thăm về chuyện ăn ở trong trường của thằng bé, hai ba cô xúm lại, tìm cách giải mã các câu nói trục trặc, lơ lớ của bà. Nhưng không ai hiểu rõ bà muốn gì. Cô Gabi chợt nảy ra sáng kiến, kêu cu Bê vào. Thế là, qua thông dịch viên tí hon cu Bê, các cô giáo hiểu được yêu cầu, nguyện vọng của mẹ thằng bé. Bà mẹ cũng hài lòng yên tâm với cách làm việc của vườn trẻ.

 

Anh Giai

 

Anh Giai, người Huế, nói giọng Huế nguyên chất dù đã ở Âu châu trên 30 năm. Có lẽ, do thuận duyên với người Huế, cho nên, nói tiếng Việt với anh Giai, nghĩa là nói giọng Huế. Có lần gặp anh, thằng nhóc con, lúc đó chừng 5 tuổi, sau khi vòng tay chào bác Giai, kéo mẹ nó xuống, hỏi nhỏ: “Mẹ, bác Dai nghĩa là thịt bò dai phải không?” Mẹ nó ậm ừ, không dám nói lớn. Vì, ngại buồn lòng anh Giai. Vì, không muốn để lộ chuyện nhà. Có lẽ ba mẹ nó đi chợ hay mua phải bò dai, cải già nên thằng bé nhập tâm.

 

Ngày kia, anh Giai lần đầu ngao du sang khu chợ Rồng Vàng ở Cheb, Tiệp Khắc, gần biên giới Đức. Lơ ngơ vào chợ, anh tưởng như mình đang ở đâu đó bên Việt Nam. Loa phóng thanh đang lặp đi, lặp lại nếp sống văn minh, yêu cầu đậu xe đúng chỗ, giữ gìn vệ sinh chung. Các bảng viết quảng cáo cá chép tươi sống, có vẽ thêm bàn tay chỉ hướng đi. Chợt có tiếng chào gọi, giọng Bắc, đầy vẻ thân thiện:

 

– Anh giai, anh giai, vào đây. Xem có gì vừa ý, mua giúp cho em đi nào. Hay anh giai mua thuốc lá nhé. Hiệu nào em cũng có cả anh giai ạ.

 

Anh Giai chậm chân, nhìn quầy hàng chất đầy những dĩa CD nhạc, DVD phim, các dĩa game. Đương nhiên, tất cả đều là dĩa sao chép lại. Anh Giai chẳng có ý định mua gì. Nhưng vẫn lắng nghe và quay qua nhìn thanh niên vừa nói cười, vẫy tay với anh. Anh Giai bỗng thấy phấn chấn. Người bán hàng mau mắn, vui vẻ, lại biết cả tên mình. Anh Giai rẽ vào hàng. Cố nhớ đã gặp anh chàng bán hàng này ở đâu. Có lẽ thời làm ở Siemens, ở đó đông dân Việt Nam lắm. Nhưng chịu thôi, anh chẳng biết quen thế nào. Anh Giai cảm thấy hơi áy náy. Mình vô tình, hay trí nhớ kém mà không hề nhận thấy một tí nét quen biết của người này. Anh Giai vui vẻ hỏi:

 

– Tôi đến chợ đây lần đầu. Cũng chưa định mua gì. Mình quen nhau ở đâu? Sao anh biết tôi là Giai.

 

Anh bán hàng nhíu mày, tắt mất nụ cười:

 

– Quen đâu mà quen. Ôi giời! Sao bác hâm thế. Chứ bác không giai thì là gì hả! Chẳng nhẽ là gái.

 

Anh Giai sượng ngắt, quày quả bỏ đi. Ra thẳng xe, chạy về Đức. Không còn hứng thú tìm đến hiệu tóc thanh nữ người quen giới thiệu.

 

Chân Chó

 

Cô nghe nhiều người nhắc đến chợ Việt Nam ở bên Tiệp Khắc. Nghe đâu, chợ bên đó bán đồ ăn y chang bên Việt Nam. Rau cỏ trăm hồng nghìn tía. Từ rau đay, rau rút đến rau dền, bông bí. Chứ không lơ thơ vài bó ngò úa, mấy lá quế dập như chợ bên Đức chỗ cô ở. Hình như còn có cả hột vịt lộn, lòng heo, lòng gà... Cô nhiều lần rủ chồng, thử làm một chuyến du lịch Việt Nam bên Tiệp. Nhưng chồng cô cứ nại cớ này, cớ nọ không đi. May quá, vợ chồng ông anh qua đó chơi, xe còn đúng một chỗ cho cô. Đến nơi, vợ chồng anh chị lo chăn hai thằng nhóc, lẹ chân chạy tuột vào hàng bán các loại áo đá banh với tên của các cầu thủ nổi tiếng. Ông anh giao hẹn, muốn đi đâu thì đi, hai tiếng đồng hồ sau trở lại. Cùng đi ăn, rồi mỗi người khuân một bao gạo Thái Lan, giá chỉ bằng phân nửa bên Đức. Thế là huề lại tiền xăng. Cô háo hức nhìn quanh. Không biết nên đi hướng nào, tận dụng hai tiếng đồng hồ, để xem cho được nhiều thứ. Cô thấy vui quá. Tiếng chào hàng lao xao, vừa tiếng Đức, vừa tiếng Việt. Cô chậm chân trước quầy hàng bán các loại áo thun, áo khoác, nhái các hiệu nổi tiếng như Chanel, Armani, Polo… Chị bán hàng có vẻ thất vọng. Không chèo kéo được mấy bà Đức ghé vào hàng, mặc dù chị đã chào mời bằng tiếng Đức thật tha thiết. Chị bán hàng thấy cô đang quan sát mấy cái áo khoác để chạy bộ. Chị lại gần, nhỏ giọng thân thiện:

 

– Em gái này! Chị có Chân Chó. Mới về!

 

Cô giật mình. Trời đất! Hổng lẽ mình có tướng mạo của dân nhậu nhất mực, nhì vàng, tam khoang, tứ đốm hay sao đây. Cô nghĩ thầm, đúng rồi, xứ này người ta trọng mấy con cẩu lắm. Cấm ăn thịt cầy, cho nên chị ta phải treo... áo quần, bán thịt chó. Chị đang nhìn cô, chờ đợi. Cô gượng gạo lắc đầu, lúng búng:

 

– Dạ, cám ơn chị. Em không… không… biết ăn thịt... cầy.

 

Chị khựng một chút. Hiểu ra, cười rũ:

 

– Không, không phải thế em gái ạ. Cầy, dê, lợn... muốn gì có đấy. Nhưng hàng ăn bên kia đường cơ. Chờ chị một chốc nhé.

 

Chị thoăn thoắt đưa cây cần có móc lên cao, thiện nghệ đẩy mấy cái áo treo san sát thành dãy. Chị móc xuống cái áo khoác màu rêu. Gác cần qua một bên, chị căng áo cho cô xem:

 

– Hàng Chân Chó đây. Cực đẹp! Em gái ạ.

 

Trong tích tắc, cô chợt hiểu, chân chó đây là nhãn hiệu Jack Wolfskin, chớ nào có phải là “nguyên vật liệu” để nấu rựa mận đâu.

                             

Nói Tiếng Anh

 

Ông sang Mỹ, bữa trước, bữa sau là lao vào đi làm việc ngay. Tiếng Anh của ông theo nguyên tắc “tri túc tiện túc”... biết đủ thì đủ. Một hôm, ông đi chợ. Đang rà rà chạy xe vào bãi đậu. Bỗng đâu, có một chiếc xe to tướng xẹt ngang, quẹo gấp, chẳng có báo hiệu đèn đóm gì sất, xém quẹt vào xe ông. Ông nhấn còi cảnh cáo. Tài xế đằng trước tấp vào lề, một bà Mỹ thiệt đô, rất “môn đăng hộ đối” với tầm cỡ chiếc xe, chạy ra làm dấu với ông, có vẻ như bất bình chuyện ông bấm còi. Ông bỗng bực, chà, đã làm lỗi, mà còn gây sự. Đàn bà chạy xe lạng quạng là thường, ông nghĩ vậy. Thôi, để mình cắt nghĩa cho bà ấy hiểu. Thế là ông mở cửa, vận dụng toàn bộ vốn tiếng Anh trong đầu. Ông vừa nói, vừa hoa tay làm điệu bộ. You know, you go straight, but you turn right, you don't let me know. Ông đang ngon trớn, you thế này, you thế kia, bà Mỹ nghệch mặt ra. Sau đó, như hết kiên nhẫn, gằn từng tiếng, chậm, rõ: ENGLISH ONLY, PLEASE!

 

Mỗi lần kể lại chuyện này, ông hậm hực mãi:

 

– Con mụ tây cà chớn, tui nói tiếng Anh với nó cả buổi, chứ tiếng gì, mà nó lại bảo English only.

 

Bạn của ông trầm ngâm:

 

– Chắc ông phát âm ghê rợn quá nên bả mới không hiểu. Chớ hồi nẳm tui qua Mỹ, đi với bà chị dâu, tui trót lọt ngon lành. Khi cảnh sát Mỹ hỏi giấy tờ, tui chỉ bà chị rồi nói, mai xít– tơ (my sister). Ông cảnh sát bèn mở sổ thông hành của tui và bà chị, đọc lui đọc tới, rà ngón tay chỗ họ tên. Chắc là ổng hỏi chị em sao khác họ. Lúc đó, tui có biết chị dâu gọi là gì đâu. Nên phải diễn tả, chị em nhưng không máu mủ, ruột thịt. May, mà còn nhớ chữ “máu” trong tiếng Anh. Tui bèn phán ngay, dét, xít– tơ, bớt nô bờ– lớt (yes, sister, but no blood). Đó, vậy mà ổng hiểu ngay, ok cái một, cho tui với bà chị nhập cảnh liền tù tì.

 

Nghe Tiếng Mỹ

 

Cô qua Mỹ chơi. Cô hỏi thăm cách thức để mua thẻ điện thoại. Con em họ bảo:

 

– Thôi, cần có mấy ngày. Chị mua làm gì, tốn tiền vô ích. Em đưa cho chị xài.

 

Con em ở Mỹ đã lâu, có chồng Mỹ, nói tiếng Việt xen lẫn tiếng Mỹ khá nhiều. Chiều, con em gọi cho cô, hỏi thăm:

 

– Chị cần thêm gì không?

 

Cô nhanh nhẩu:

 

– Đầy đủ hết rồi. Bây giờ có điện thoại của em, liên lạc được bạn bè. Rất tiện.

 

Con em nhắc nhở đôi điều, cô nghe loáng thoáng:

 

– Nhớ chặt nghe.

 

Cô nghĩ ngay, có lẽ điện thoại này rất dễ vỡ. Bởi vậy, con em nhắc mình phải giữ chặt. Cô đang cầm điện thoại trong bàn tay, vội đưa thêm tay kia lên điện thoại cầm cho thật chặt. Nghĩ thầm, con em tốt bụng, cho mình mượn điện thoại. Mình lắt xắt, lỡ làm rớt, bị hư, biết ăn nói làm sao. Cô gật gật đầu, tưởng như đang đứng trước mặt con nhỏ em:

 

– Em yên tâm, chị đang cầm chặt lắm.

 

Sợ nó chưa hiểu, cô nhắc lại:

 

– Chị để ý lắm. Sẽ cầm điện thoại thật chắc khi dùng.

 

Hình như nhỏ em cười xòa:

 

– À không, I mean, chị nhớ charge cái điện thoại, kẻo nó mau hết pin lắm.

 

Cô ghé thăm mẹ của người bạn. Bác thật xốc vác. Cao tuổi, mà đi đứng nhanh nhẹn, cười nói rôm rả. Bác nói:

 

– Bác khỏe như ri, nhờ ăn cháo ốc miêu đó con.

 

Cô nghĩ, mấy món ốc thường rất hấp dẫn. Nào là ốc hương xào tỏi, ốc bưu nhồi thịt hấp sả. Nghe nói, bên Mỹ có ốc vòi voi, cao lương mỹ vị, bên Âu Châu chưa từng thấy. Bác hăng hái kể:

 

– Sáng mô bác cũng ăn một tô cháo ốc miêu nấu sữa. Ăn miết thấy ngon đó con.

 

Chà, ốc nấu với sữa chắc còn mùi tanh. Không biết mình có chế biến theo kiểu ốc len xào dừa được không. Bác hỏi:

 

– Chớ bên Âu châu có ốc miêu không hả con?

 

Hồi giờ cô chưa nghe tới món ốc miêu, nên đoán là ở Âu châu không có.

 

– Dạ, con chưa thấy ốc miêu bao giờ. Ở Đức, các món hải sản không đa dạng như bên Mỹ đâu bác.

 

– Khi mô về lại Đức, con nhớ mang ốc miêu về cho Ba con dùng. Rất tốt đó con.

 

Ô, vậy chắc là khô ốc như khô mực, khô cá, hay loại đóng hộp chứ không phải là đồ tươi.

 

– Dạ, dạ, con cám ơn bác. Nhưng Ba con không dùng được món ni. Ba con ăn chay trường.

 

– Ăn chay lại càng hạp với ốc miêu hơn.

 

Cô hòa hoãn:

 

– Dạ, bác cho con coi thử con ốc miêu ra sao, rồi con theo đó mà mua.

 

Bác phăng phăng đi lại tủ bếp, lục lọi một chút, rồi rút ra một hộp giấy. Bác đem hộp lại đưa cho cô:

 

– Đây, bác biếu hộp ni cho Ba con.

 

Cô nhìn kỹ bao bì của hộp, hình hột lúa kiều mạch. À, thì ra là oatmeal. Gì chớ Haferflocken bày hàng hàng, lớp lớp trong siêu thị Đức. Cô đón hộp oatmeal bà bác đưa:

 

– Con cám ơn bác nhiều. Con sẽ về giới thiệu món ốc miêu cho Ba con.

 

Thời gian ở lại khu quận Cam, cô rất thích nghe radio tiếng Việt. Buổi sáng, cô ở nhà với mẹ của bạn. Vừa chuyện trò rỉ rả với bà cụ, vừa nghe radio. Mục nào cũng vui tai. Từ nhạc yêu cầu, đến màn giải đáp thắc mắc. Cả những đoạn quảng cáo lao xao, vui nhộn ra trò. Đối với người ở California, radio tiếng Việt là chuyện bình thường trong xóm nhỏ. Nhưng so với xứ lạnh bên trời Âu, nghe radio tiếng Việt là loại hàng... hiếm quý. Bỗng, cô nghe lời quảng cáo về chương trình ca nhạc thính phòng, tưởng nhớ nhạc sĩ Phạm Đình Chương, với ban hợp xướng Ngàn Khơi và nhiều ca sĩ “ruột” của cô. Câu cuối của cô xướng ngôn viên: “Số ghế rất hạn chế. Quý vị hãy đặt vé sớm tại tiệm nhạc Beethoven. Số điện thoại…” Nhanh quá, cô không kịp ghi số. Trời ơi, chương trình nhạc hay như vầy, nhất định không thể bỏ qua. Nhỏ bạn đi làm vừa về đến cửa, cô háo hức kể ngay. Nhỏ bạn đủng đà, đủng đỉnh:

 

– Ôi chào, mày khéo lo. Chờ đến ngày diễn, mua tại chỗ cũng còn vé.

 

Cô nằng nặc:

 

– Không! Mày phải dẫn tao ra tiệm Beethoven mua vé, kẻo hết.

 

Nhỏ bạn nghiêng nghiêng đầu, chắc nghe không rõ:

 

– Tiệm gì?

 

– Tiệm nhạc Beethoven, chắc là tiệm chuyên về nhạc cổ điển chứ gì.

 

Cô nghĩ thầm: “Hay là mụ ‘ngố’ bạn mình không biết Beethoven là ai?

 

Như đọc được ý nghĩ của cô, nhỏ bạn hỏi:

 

– Beethoven? Ông nhạc sĩ người Đức? Tao chưa nghe tiệm này bao giờ. Chắc là tiệm của Mỹ. Lạ thiệt. Thường, mấy vé ca nhạc Việt Nam toàn bán ở tiệm Việt Nam không à.

 

Mẹ của bạn góp ý:

 

– Mình chờ chút nữa người ta đọc quảng cáo lại, ghi số điện thoại, gọi tới, hỏi địa chỉ là xong.

 

Cô ngồi chầu gần radio, thủ sẵn bút viết để ghi số điện thoại, chờ đoạn quảng cáo. Vừa nghe đến câu Chương Trình Nhạc Thính Phòng, cô vội vàng ra dấu cho nhỏ bạn. Mẹ của bạn cũng vui vẻ đến gần lắng tai nghe.... “Quý vị hãy đặt vé sớm tại tiệm nhạc Beethoven.”

 

Mẹ của bạn bật cười vui vẻ:

 

– À, tiệm Bích Thu Vân bán băng nhạc gần bên siêu thị Á Châu đó. Khỏi ghi điện thoại con ơi. Ngày nào ra chợ, Mẹ chả đi ngang qua đó.

 

Ừa hén, Bích Thu Vân chớ có phải Beethoven đâu. Chắc tai của cô nghe tiếng Đức riết, nên nghe… gà hóa cuốc.

 

Chị của người bạn chở cô đi shopping. Vừa quẹo vào bãi đậu xe, chị dừng, nói với cô:

 

– Em xuống đi! Chị phải chạy ra xa để “phạc”.

 

Cô giật mình, ồ, chị sao ý tứ quá. Chỉ “thả hơi” mà cũng ngại, kêu mình xuống để tìm nơi thích hợp.

 

Cô vui vẻ:

 

– Đâu sao chị. Em đi theo chị được mà.

 

Chị lúc lắc đầu:

 

– Không, ở đây chị không “phạc” được. Phải chạy ra ngoài kia thôi.

 

Cô hơi tức cười. Nhiều người cũng lạ, những chuyện “tiện”, từ tiểu, đến trung, đến đại đều phải cần chỗ thuận tiện mới được. Thôi, thì mình đứng đây chờ, cho chị thoải mái. Nhưng cô lo lắng:

 

– Em lạ chỗ. Đứng một mình, hơi sợ chị ạ.

 

Chị chặc lưỡi:

 

– Ừ, em đi theo chị vậy.

 

Chị chạy ra xa, tìm chỗ rộng đậu xe. Rồi chị rút chìa khóa bước ra. Cô ngạc nhiên, ủa, vậy chị “phạc” hồi nào vậy ta. Cô theo chị. Vừa rảo bước, chị kể:

 

– Em chị nó ghẹo chị hoài. Chị chạy xe có thấy tiến bộ. Nhưng “phạc” thì dở lắm. Phải tìm chỗ rộng. Chớ mấy “phạc kinh” của phi trường thì chả dám.

 

Ô là la! Nãy giờ chị lo tìm chỗ để park chớ có phải để... fart đâu.                  

 

Tăm Bông

 

Ngày tháng ở ký túc xá của cậu bỗng dưng rộn ràng hẳn lên. Số là, có con bé mới đến dự học lớp Đức Ngữ sơ cấp. Sau khi truy cập tung tích, cội nguồn, lăng lăng líu líu, cậu khám phá ra, cậu và con bé có họ hàng xa xa với nhau. Bà con theo kiểu gọi ông già hói trên lon sữa là Ông Thọ. Sao cũng được, miễn là con bé có vẻ tin tưởng cậu, thắc mắc gì, chạy qua hỏi ý cậu. Cậu ta đây là người đi trước, trước được cả hai năm trời, đã vào đến lớp 11 của trung học Đức (mặc dù cậu đã xong trung học Việt Nam trước đó 6 năm). Trưa hè đậm nắng, đám học sinh Việt rủ nhau đi hồ bơi. Cậu qua thông báo cho con bé, cho biết cậu định ra siêu thị mua ống kem chống nắng. Con bé vui vẻ:

 

– Tiện quá, sẵn nhờ anh mua cho em một ít tăm bông. Đi bơi cũng cần thứ này.

 

Cậu khựng lại. Cái gì! Con bé nhờ mình mua “tampon”. Cậu lầm bầm:

 

– Được, được.

 

Rồi quày quả bước đi. Mới mấy năm mình xa Việt Nam. Không dè con gái bây giờ quá sức tự nhiên. Dám mở miệng nhờ đàn ông con trai đi mua món hàng... tối mật đó. Nói cho ngay, cậu biết được công dụng của món hàng cũng mới đây thôi. Khi đang coi ti– vi thấy quảng cáo, cậu buột miệng hỏi thằng bạn bên cạnh. Nó nheo mắt nhìn cậu như thằng ngáo. Rồi vênh váo bằng giọng đàn anh, cắt nghĩa cho cậu nghe. Cậu bỗng đâm ra bực bực cái con bé này, cảm thấy nó hơi dễ ghét. Biết lấy lý do gì để từ chối. Mua cho nó, lỡ đứa bạn nào bắt gặp, chỉ có nước độn thổ. Cậu lẩn quẩn khu vực cấm kỵ một hồi, lấm lét ngó quanh. Mong đừng gặp người Việt nào trong lúc này. Cậu nhanh tay chụp một hộp, bỏ vào xe. Đến quầy, cậu còn cẩn thận lấy thêm tờ báo chương trình ti– vi, phủ lên hộp tampon. Cậu nóng cả mặt, khi cô bán hàng cầm hộp lên xem giá tiền. Hình như cô ta đang nhìn cậu soi mói. Cậu lẹ tay bỏ món hàng “quốc cấm” vào túi. Thở phào nhẹ nhõm, vừa xong sứ mạng khó khăn. Về ký túc xá, cậu dùng bao to quấn hộp hàng nhỏ năm bảy bận. Cậu đem món hàng qua giao cho con bé, lắc đầu nguầy nguậy khi con bé hỏi, xin gởi lại tiền. Lật đật ra về, sợ lỡ ai bắt gặp. Cậu đang bận rộn bỏ mấy món đồ bơi vào túi. Có tiếng gõ cửa. Cậu không tin ở mắt mình. Con bé đang đứng trước cửa, tay cầm hộp tampon, trơ trụi, không che giấu gì sất. Trời cao đất rộng ơi, nó có ý định gì đây. Con bé rụt rè:

 

– Anh ơi, loại tăm bông này lạ quá. Không giống như mấy cái tăm bông be bé để ngoáy tai, hôm trước mấy chị cho em ở hồ bơi.

 

Cậu sực hiểu:

 

– À, cái đó tiếng Đức gọi là “Wattestäbchen.”

 

Con bé rùn vai:

 

– Eo ui, chữ gì khó nhớ quá. Em cứ gọi tăm bông cho dễ.

 

May quá, con bé mới qua, chữ nghĩa chưa đủ để đọc hướng dẫn trên bao bì. Bởi vậy, nó không biết cái món cậu “bé cái nhầm” là gì. Lòng cậu thơ thới. Cậu sẽ chạy ù ra siêu thị, đường đường chính chính, khuân vài hộp tăm bông cho con bé. Cậu thấy con bé vẫn dễ thương như hôm nó mới đến.

 

Hoàng Quân

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.