Hôm nay,  

Nhạc Trong Tù

21/12/202213:18:00(Xem: 3877)



Ai trong chúng ta khi vào trong nhà tù lớn nhỏ của cộng sản mà lại không nhiều lần ngân nga, hát nho nhỏ trong miệng những bản nhạc quen thuộc, hay đôi khi chỉ ư e những âm điệu bổng đến khi nhớ về người thân. Đôi khi, lợi dụng lúc được thăm nuôi, tình trạng chung có phần cởi mở đôi chút, từng nhóm nhỏ tù nhân ngồi xoay tròn bên nhau, chia nhau chút quà, san sẻ niềm vui được thương yêu, ca hát nho nhỏ cho nhau nghe. Đa số những bản nhạc thuộc loại tình cảm, mà CS kêu là nhạc vàng, cấm đoán vì cho chúng là đồi trụy, phản cách mạng. Đặc biệt có nhiều bạn tù rất tài hoa, không những hát hay, giạng hát rất tình cảm mà lại còn thuộc lời của nhiều bản nhạc, thường tự động thay phiên nhau trình diễn với cả tấm lòng, như thầm muốn gởi lời ca tiếng hát đến cho người mình yêu thương ở nơi xa. Trong những bản nhạc  diễn tả tâm trạng buồn như thương nhớ người yêu, những kỷ niệm của đôi lứa, hoặc về thất tình, lo sợ mất người yêu, thường được hát nhiều là những bản như “Tôi Đưa Em Sang Sông”, “Sang Ngang”, “Kỷ Vật Cho Em”, “Tình Ca Người Mất Trí”, “Mùa Xuân Không Còn Nữa”…

Ai cũng biết trong trại tù luôn có những antennes rình rập, sẵn sáng bán linh hồn mình để mong được cho về sớm. Chuyện ca hát trong trại tù không thể nào kín đáo dù xẩy ra trong góc độ nhỏ của từng nhóm nhỏ, thường trong chiều tối trước giờ đi ngủ, nên có trường hợp vài bạn tù hay hát hoặc hát hay được quản giáo “mời” lên làm việc. Cho dù có bị cảnh cáo nặng nhẹ như thế nào, họ tỏ vẽ e dè đôi chút trong vài tuần ban đầu, nhưng với thời gian họ từ từ ca hát lại, riêng cho mình rồi cho nhóm - y như trước. Rỏ ràng tinh thần tự do và văn nghệ luôn song song với nhau, khó mà giết chết được cả hai, cho dù trong tù tội hay bị cấm đoán. Không biết những bạn tù thích hát đó có thuộc thành phần tâm lý chiến, chiến tranh chính trị hay chỉ là những chàng không quân lãng mạn, nhưng khi chuyển trại, họ thường bị phân loại đi chung với nhau.

Một bạn tù phạm kỷ luật, bị nhốt trong thùng connect nằm trong khu vực chỉ huy của trại. Anh ta không la hét, anh không chưởi rủa, nhưng anh ta cũng không câm lặng. Anh hát. Và hát. Hát rất nhiều bản nhạc tình, toàn là những tình ca từng nổi tiếng của Miền Nam, kể cả những bản nhạc về lính. Ban ngày anh im lặng. Nhưng khi trời bắt đẩu tối, anh lên giọng hát. Tiếng anh hát vang xa trong cả trại, bay vút lên không gian, rồi tỏa ra như một thôi thúc bất tận trong lòng cả mấy trăm tù nhân – mặc những tiếng la mắng của bọn lính cảnh vệ, và tiếng dộng vào vách sắt thùng connect. Các bạn tù nằm nghe anh hát mà lòng đau đớn, ngưỡng mộ tinh thần bất khuất của anh xử dụng tiếng hát của một kẻ sĩ chống đối với kẻ dữ. Tiếng hát của anh yếu dần sau đêm thứ tư và sau đó tắt hẳn. Chúng tôi không biết anh sống chết hay bị chuyển đi nơi khác.

Giữa những thiếu thốn vật chất, những dằn vặt thương nhớ vợ con, những đày ải cơ cực của lao động, người tù thường bảy tỏ tâm tình bằng cách làm thơ hay sáng tác nhạc. Trong những bạn tù tôi quen không có bạn nào đủ trình độ để sáng tác thơ nhạc. Như trường hợp thi sĩ Nguyễn Chí Thiện sáng tác tập thơ Hoa Địa Ngục, hay thi sĩ Tô Thùy Yên sáng tác bài thơ “Tháng Chạp Buồn” trong tù (nhờ nhà văn Phạm Tín An Ninh thuộc nằm lòng nên ghi viết lại toàn bộ sau khi đi tù về). Với đa số còn lại, tù nhân thường hướng đến niềm tin tín ngưỡng của mình để sống sót. Chính những lúc ấy, lòng tôi thôi thúc đọc kinh cầu nguyện cho vợ mình, cho người thân của mình, cho mình sống sót trong chốn lao tù vô vọng. Để nhớ lại những tiếng chuông quen thuộc của nhà thờ Phủ Cam, những lần đi lễ cùng gia đình, nhất là lễ bằng tiếng Latin tại Đan Viện Thiên An với giọng hát trầm trầm của các cha, các thầy ca tụng Thiên Chúa vang lên trong ngôi nhà thờ đá, giữa tiếng thông reo bên ngoài của núi rừng. Và nhớ tiếng hát đăc biệt thánh thiện của ca đoàn “gia đình trị” của anh Lê Văn Danh, sau này tốt nghiệp khóa 2 Y Khoa Huế, trong đó người cha vừa là nhạc trưởng vừa chơi đờn organ, bà mẹ giọng ca chính, các anh em trai hát bè nam, các chị em gái, bè nữ, tại nhà thờ Phan Xi Cô, Huế.



Chúng tôi, ba bạn tù nằm gần nhau, gồm Hoàng Văn Tân (RIP, 2016), Hồ Xuân Tịnh (Orange County) và tôi nằm giữa, cùng rủ nhau đọc kinh mỗi tối, sau tiếng gọi nhắc nhở hay thúc cùi chỏ của bạn Tân với câu “huynh, đọc kinh với đệ” đều đặng lập lại mỗi đêm cho đến lúc chuyển trại. Thỉnh thoảnh chúng tôi còn ư e trong miệng bản nhạc Sao Biển vì không thể thuộc hết lời, ngoài mấy câu “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển thế gian – Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc về nơi phúc nhàn – Sống chết con trông chờ, bao nhiêu sức hộ phụ, lòng Mẹ sẳn sàng mà đoái đến con, giúp con đưa con về tới bến. Đưa con tới Thiên Đàng…”. Về sau, khi chòng chành trên tàu vượt biên, tôi lại hát thầm “Thân lạy Nữ Vương, Mẹ thấu tình con, sóng va tư bề, thuyền con sắp chìm, hầu theo nước xuôi dòng…”

Sau nhiều tháng lắng nghe các bạn tù hát, tôi bỗng nhận thấy chưa nghe mấy ai huýt gió bất cứ bản nhạc nào. Trong thời trung học và sau này đại học, tôi thường xuyên tu tập huýt gió có lẻ vì hồi đó chưa quen hát hoặc vì mở miệng hát thì bị chê đè, nên tiếng huýt gió của tôi có phần tiến triển và mạnh dần. Bấy giờ huýt sáo được cho là cao bồi, nhưng không vì vậy mà tôi bỏ cuộc mà tiếp tục huýt. Khi vào lính, lại huýt nhiều hơn vì huýt gió có vẻ làm tăng tính phong trần của một chàng trai hoa dù mũ đỏ - tôi nghĩ như vậy. Tại Hải Ngoại, tôi chỉ thấy duy nhất ca sĩ Elvis Phương có huýt gió trong vài bản nhạc. Sau vài tháng quen thuộc trong tù cải tạo, tôi bắt đầu huýt gió, nhẹ nhàng, nho nhỏ, cho chính mình nghe, và có thể cho vài bạn tù gần gủi. Cứ như vậy, đôi khi ngồi một mình, trong khi lao động, giữa những lúc nghỉ lao động, trong nổi nhớ nhà, tôi lại huýt gió những bản tình ca. Có vẻ vì giữa núi rừng và thiên nhiên, tiếng huýt gió – nhất là với nhạc huýt gió trong phim cao bồi “The Good, The Bad And The Ugly” của tài tử Clint Eastwood, và trong phim Cầu Sông Kwai, hay trong phim “The Longest Day” – của tôi có phần quyến rũ chăng, nên các bạn tù cũng dễ dãi có lời khen. Vả lại, vì không lời, nên cảnh vệ đi theo canh tù cũng khó hiểu bài gì, và antennes cũng khó kết tội và báo cáo.

Trong nhũng bài thuộc loại thánh ca, ngoài bài Sao Biển mà tôi thường huýt gió bất kể khi nào, tôi còn huýt gió các bài Trên Con Đường Về Quê Mà Vắng Bóng Mẹ, Năm Xưa Trên Cây Sồi, Kìa Bà Nào, Ave Maria, Cao Cung Lên… Đặc biệt trong 2 lần Giáng Sinh ở trại tù và một lần Giáng Sinh trong nhà tù Chí Hòa, tôi cũng nhớ đến hiện thực và dâng lới cầu nguyện của mình bằng cách ư e trong cổ họng, hay huýt gió các bài Mon Beau Sapin, Hang Belem (đêm dông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa) và bài Đêm Thánh Vô Cùng (Silent Night) cùng với Bài Thánh Ca Buồn – mà tôi cho là hay nhất trong các bản nhạc vừa đạo vừa đời.  

 Đức tin Công Giáo đã giúp tôi vững mạnh tinh thần để sống vững qua thời chinh chiến, qua thời tù cải tạo cũng như vượt qua những trần ai trong vượt biên và những năm tháng làm lại cuộc đời tại nước người, đến tận bây giờ và hy vọng mãi về sau. Những thánh ca quan trọng không kém khi hợp lực đưa tâm hồn hướng về Chúa. Và những gì tôi không thực hiện được bằng giọng hát của mình, tôi đã huýt gió để đưa khúc ca thoáng theo trời xanh.

“Ngài đã giúp tôi bước tiếp dù từng vấp ngã

 Ngài cho tôi hy vọng dù đã từng thất vọng

 Ngài cho tôi ánh sáng khi tôi đang bước trong bóng tối

 Ngài giúp tôi sống lạc quan dù trong mọi hoàn cảnh bi quan”

 

Cuối cuộc đời thì tiếng huýt gió của tôi, nhất là những khi ngồi bên nhau trong xe, là một trong những tài năng mà vợ tôi có thể thưởng thức và góp lời khuyến khích. Mong có ngày tôi sẽ huýt cho bạn nghe.

Vĩnh Chánh,

Tháng 12, 2022

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.