Hôm nay,  

Trận lụt vàng

01/04/202310:40:00(Xem: 3723)
Truyện

reeducationcamps

Bầu không khí trong phòng giam lúc nào cũng ngột ngạt khó chịu. Nỗi khó chịu ấy cứ liên tục bao trùm đến nỗi mọi người phải quen đi như một lẽ tất nhiên. Tôi càng khổ sở hơn nhiều vì đã vướng phải bệnh ghẻ mấy tháng nay. Ghẻ mỗi ngày mỗi lan ra trên tấm thân gầy còm của tôi kéo theo luôn cả sự tàn tạ về sức khỏe. Mới vài hôm đây tôi lại mắc thêm chứng tê bại, cử động tay chân rất khó khăn. Thuốc men quá thiếu, ăn uống cũng quá thiếu, tình trạng chữa trị đối với tôi thật là bi quan.
     Buổi sáng ấy tôi thấy người uể oải, đầu choáng váng, nói không ra hơi, ngột ngạt khó chịu gấp bội ngày thường. Sự khó chịu gia tăng tột mức khiến tôi đã nghĩ rằng đời mình sắp đi đứt. Ở đây đã có mấy người lần lượt "thăng" rồi. Mang một lần hai chứng bệnh, bệnh ghẻ thì chỉ chữa bằng cách xức nước đắng thuốc lào, bệnh tê bại thì chỉ chữa bằng cách tự vận động, tôi thật hoàn toàn tuyệt vọng. Thế là tôi cứ nằm liều, lười luôn cả việc đi cầu đi tiểu. Rõ ràng mình đang ở tình trạng chờ đợi tử thần đến rước. Với sức khỏe mỗi lúc mỗi đuối thêm và sự ngột ngạt khó chịu tột cùng này, có lẽ tôi không thể chịu đựng qua được một vài tiếng nữa. Tôi gọi một thằng bạn thân, thằng Thái lại, trù mở lời trăng trối với nó, nhưng nó nhăn mặt chận họng:
     – Tầm bậy. Sáng nay trời nực nội khó chịu hơn mọi ngày. Ai cũng thấy như vậy cả chứ không phải một mình mày đâu!
     Lúc bấy giờ cơn đau đớn hành hạ quá làm tôi không còn đầu óc nào để ý tới ai. Nghe Thái nói, tôi nghĩ là nó trấn an tôi thôi. Khi tôi đang bị dằn vật bởi cơn đau thì bỗng nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái nhà. Nhiều tiếng reo mừng vang lên:
     – Đã quá! Mưa tới rồi!
     – Mưa lớn lắm anh em ơi!
     Tôi thấy không khí trong phòng đột ngột dịu xuống và như được ai cho uống thuốc tiên, người tôi cũng khỏe ra nhiều. Tiếng mưa nghe rào rào. Thoáng chốc, mọi người trong phòng đều nghe được tiếng nước chảy dữ dội từ các máng xối. Tiếng cóc nhái, tiếng ễnh ương bên ngoài cũng đua nhau trỗi lên. Hơi nước mát bốc vào trong phòng làm cho mọi gương mặt đang khô héo bỗng như tươi lại. Tiếng nói tiếng cười trong phòng trở lên rộn rã... Chúng tôi đang sung sướng thưởng thức cái không khí mát dịu hiếm hoi chưa bao lâu thì giựt mình vì tiếng kêu:
     – Coi chừng nước vô phòng anh em ơi!
     Mọi người nhìn ra. Một đường nước đang từ từ bò qua dưới kẽ tấm cửa bửng bằng sắt. Dòng nước lan lan thật nhanh trên nền phòng. Những người nằm gần cửa vội vã xếp tất cả đồ đạc ôm theo mình. Khiếu và Thái nói với nhau:
     – Đưa thằng Trọng lên cửa sổ kẻo mắc nước bạc bệnh nặng thêm đó!
     Thế là tôi được đẩy lên thành cửa sổ. Bấy giờ người tôi đã khỏe lại, tỉnh lại, nhưng tôi vịn các song sắt cũng khó khăn lắm. Những ngón tay của tôi đều mất cảm giác và rất khó cử động vì chứng tê bại. Không thể tin tưởng ở những ngón tay của mình, tôi phải quài một cánh tay ra ngoài quặp khuỷu kẹp lấy một song cửa dù làm cách này rất mỏi.
Mấy phút sau cả phòng xôn xao chộn rộn hẳn lên. Nước đã vào khắp phòng và từ từ dâng. Mọi người đều phải ôm mang đồ đạc của mình lên cả. Dầu vậy, họ vẫn hớn hở nói cười vì quá lâu họ mới hưởng được một bầu không khí dễ chịu như lúc đó. Một số người không muốn giẫm nước tranh nhau leo lên cửa sổ đeo vịn như tôi. Một số khác không còn chỗ phải chen nhau tránh lên ô vệ sinh (nơi có một bể chứa nước và hai cái cầu tiêu hai đầu, xây cao hơn nền phòng) vì đây là chỗ duy nhất nước chưa lên tới. Nước vẫn tiếp tục dâng đều.
     – Trời ơi! Của quí! Vàng nổi!
     Những người đang ở trên ô vệ sinh bì bõm nhảy xuống dưới trở lại. Theo sau chân họ là từng khúc, từng miếng phân người phát xuất từ miệng hai lỗ cầu cứ từ từ tỏa ra mọi phía. Chúng càng lan rộng càng biến dạng. Từ cửa sổ nhìn xuống tôi tưởng như đám mây lan khi trời sắp mưa. Mọi người cứ xô dạt nhau mà tránh. Nhưng chỉ thoáng chốc là không còn chỗ để tránh nữa vì phân người đã loang ra khắp nơi. Trong khi đó, từ hai lỗ cầu phân người cứ thiên hình vạn trạng tiếp tục trồi lên. Nó trồi lên, trồi lên, trồi lên không dứt khiến tôi phải mỉm cười đau khổ: “Đúng là của trời kho vô tận!” Phân người cứ tiếp tục theo mặt nước lên cao. Bấy giờ thì nỗi vui sướng của mọi người đã qua hẳn nhường chỗ cho nỗi ghê sợ lợm tởm. Phân người đã phủ kín mặt nước. Những người mặc quần dài ban đầu tưởng xắn ống lên là yên, lúc này nước càng lên cao đã làm họ vô cùng lúng túng. Thứ nước này thật đáng sợ. Ngoài phân, váng dơ, lại còn biết bao nhiêu côn trùng ở nước, dòi, kiến cũng xuất hiện khắp nơi. Chúng bò lên chân người, ruồng vào áo quần làm cho ai nấy đều khó chịu. Nước đã lên khỏi đầu gối. Nhiều người sợ dơ quần bấy giờ muốn cởi cũng không được nữa. Người nào người nấy đều phải ôm mang đồ cá nhân muốn luội tay còn làm gì được. Mấy anh sức khỏe không tốt, chân yếu, đứng quá lâu xiêu qua vẹo lại vấp vào người khác làm rơi đồ xuống nước dơ cãi cọ om sòm.
      Thật là hú vía! Tôi gài cánh tay mình vào song cửa, lúc ấy cũng thấy tê cứng nhưng vẫn cứ mừng. Nhờ bệnh mà tôi được lên cửa sổ trước, đồ đạc hoàn toàn không bị dơ và người cũng thoát dầm nước. Nước cứ tiếp tục dâng cao làm cho mọi người càng thêm hoảng vía. Cán bộ trại giam bên ngoài có lẽ giờ này cũng đang lo cứu đồ đạc của họ. Những phòng tù này bị khóa kỹ tới hai lớp cửa họ đâu cần bận tâm! Nếu tình trạng này kéo dài qua đêm thì thật khốn nạn. Nhiều anh em bị thấm nước bắt đầu kêu lạnh. Có vài người đã nổi da gà, run lúi úi. Nước đã lên tới háng mọi người. Người cao dò nhất trong phòng bấy giờ phân dơ cũng đã bám vào quần cả lớp...
     "Bõm!"
     Một luồng nước bắn vọt lên hất bao nhiêu là chất dơ tung tóe tràn đầu tràn mặt mũi những người chung quanh người bị té. Anh Bội, anh bạn tù nhỏ con đang co người vịn trên thành của sổ không hiểu sao lại bị trật tay. Có lẽ do tay anh bị lạnh và tê đi. Tiếng chửi thề lẫn tiếng cười vang lên lộn xộn. Tội nghiệp anh Bội người ướt loi ngoi đứng dậy, toàn thân không một chỗ nào khỏi dính phân. Những người không may đứng quanh đó không ít thì nhiều đều phải chia phần. Anh Bội bất đắc dĩ phải xông pha bì bõm trong nước đầy phân lội vào gần bể nước để tắm giặt. Sau đó anh dùng cái áo ướt để quấn che vừa đủ phần cần thiết của mình...
     May thay, lúc đó tiếng mưa bên ngoài đã giảm. Nước cũng chỉ lên ngần ấy thì ngừng lại rồi bắt đầu rút. Nhiều người cứ nhìn vào ngấn nước ở bốn mặt tường. Nước rút hơi chậm hơn khi tiến vào. Cùng với việc nước rút, một vấn đề cấp bách hiện ra trước mắt mọi người. Khi nước lên, tuy có nhiều phân dơ nhưng nó nổi trên mặt nước, không đặc lắm, cũng dính vào chân mọi người nhưng nhờ nước lõng bõng nên ít thấy khó chịu. Nước rút chừng nào thì phân dơ càng co cụm, đặc quánh lại. Cuối cùng chúng tạo thành một lớp bùn phân sền sệt xập xèo lút quá mắt cá chân thật ghê tởm. Bước một bước rùng mình kinh khủng một bước, nhưng nào ai đứng yên được. Với lượng người quá lớn so với diện tích phòng giam, không mấy chốc cả lớp phân cục bị giẫm nhão ra hết. Chính những cục phân nguyên khi bị bể đã phát ra mùi tanh tưởi nguyên thủy làm cho bao nhiêu người muốn nôn mửa. Tôi may mắn ngồi trên thành cửa sổ nhìn anh em lội cũng phải rùng mình thon thót.
     Ban chỉ huy phòng bắt đầu chia công việc thu dọn. Dụng cụ để xúc hốt không có, chính trưởng buồng và phó buồng đều phải hi sinh cả đồ đựng cơm để anh em xúc vào một cái xô đem đổ trở lại vào cầu tiêu. Số khác thì lo múc nước giội rửa, quét dọn dần. Lúc này ngoài việc giội rửa chung, không ai được quyền dùng nước cho các việc khác. Ba tổ cứ thay phiên nhau gồng mình mà làm. Mọi người vừa đói vừa mệt mỏi vì bữa cơm chiều vẫn vắng vẻ mà thân thể thì mấy tháng nay nằm hoài cũng quen lười. Có lẽ đây là buổi công tác lao động “xã hội chủ nghĩa” tự giác vô tiền khoáng hậu mà những người trong cuộc khó quên được. Nước rút từ buổi tối mà mãi đến khoảng nửa đêm phòng mới tạm sạch. Xong việc chung những người có đồ dơ mới được phép đem giặt rửa. Khi trận lụt đang diễn ra, ít ai để ý đến mùi phân và những phản ứng tự nhiên của mình. Xong việc người ta mới để ý đến từ đầu đến cuối phòng khắp nơi đều có tiếng nôn ọe khậm khạc. Hình như đồ đạc của mọi người đều nhiễm ít nhiều mùi phân, người ta cứ bắt chước nhau ngửi đồ mình rồi khịt mũi lắc đầu. Ai nấy đều dùng đồ riêng lau chùi lại hoặc dùng quạt phất tới tấp cho sàn chóng khô.
     Khoảng một giờ khuya nhà bếp mới mang đồ ăn đến. Anh cán bộ vừa mở cửa liền vọt chạy ra xa, tay dằn ngực, miệng khạc nhổ:
     – Các anh ăn ở dơ dáy quá! Thiếu văn hóa quá!
     Hai anh tù nhà bếp vì bổn phận phải đưa cơm nước vào và thu lại đồ cũ nhưng trông bộ cũng khổ sở lắm. Anh trưởng buồng hỏi:
     – Anh em đói quá rồi! Sao trễ dữ vậy!
     – Thông cảm, phải cố gắng lắm mới có củi nấu đấy! Sao hôi cứt quá chừng vậy mà các anh chịu nổi?
     Anh trưởng buồng kể sơ cho anh nhà bếp nghe việc cầu bị nổi phân, anh tiếp:
     – Anh làm ơn nói với cán bộ xin khoan đóng cửa phòng một chốc cho mùi phân bốc đi bớt có được không? Hôi quá anh em càng sinh bệnh ra đấy!
     – Được, tôi nói cho!
     Anh tù nhà bếp lui ra nói với anh cán bộ:
     – Phòng này cầu tiêu bị nổi phân họ mới dọn xong. Xin cán bộ khoan đóng cửa một chốc để cho mùi phân bốc bớt, xin cán bộ thông cảm cho họ!
     Anh cán bộ lạnh lùng nói:
     – Không được! Mở như thế cho nó thúi cả trại ai mà chịu nổi! Mà mở cửa thì tôi phải đứng đây vừa canh chừng vừa ngửi cứt à? Chìa khóa đây, anh vào đóng khóa lại ngay cho tôi!
 
*
 
Khi chia cơm xong, mọi người đang lần lượt lấy phần mình về bỗng có người rú lên:
     – Thôi chết tôi rồi!
     – Kia kìa! Gớm ghiếc quá chừng!
     Nhiều người xúm lại coi chuyện gì đã xảy ra. Thì ra người ta chợt thấy trong tô cơm độn 80% sắn của anh kia có mấy con dòi đang bò lúc nhúc. Khổ chủ buồn bã định đổ đi thì một người cản lại:
     – Để cho tôi! Hạt ngọc của trời đâu phí được!
     Anh vừa nói vừa cầm lấy cái tô của người bạn lượm mấy con dòi vứt vào bồn cầu rồi úp cái phần cơm ấy vào tô mình. Một anh bạn khác thấy vậy cười hóm hỉnh:
     – Sao lại vứt dòi đi! Dòi mẹ ngon dòi con béo, thêm vitamin mà lị!
     Theo sự xầm xì mà cười với nhau, hình như còn nhiều người nữa phát hiện trong cơm mình có dòi nhưng họ chỉ lặng lẽ lượm dòi vứt đi...
     Sau cơn mưa, không khí trong phòng vẫn tiếp tục mát dịu, lại trải qua một ngày quá mệt mỏi nên đêm đó phần đông anh em ngủ được. Tuy thế, chốc chốc lại có người phải vùng dậy vì dòi chun vào lỗ tai hoặc ruồng vào tóc. Không hiểu chúng núp ở đâu chui ra mà cả đến hàng chục người bị như thế...
     Thế mà đâu đã hết, hai ba ngày sau anh em còn nhiều người vẫn thấy dòi bò bên chân vách hoặc trong đồ đạc của mình.
     Trận lụt ấy xảy ra vào năm 1976 ở trại giam Tân Hiệp Biên Hòa (trại B5). Dù nó không gây thiệt hại nhân mạng hay vật chất nhưng nó cứ ám ảnh tôi mãi. Đã mấy chục năm qua, mỗi khi hồi tưởng lại, tôi vẫn còn rùng mình. Khổ nỗi, lâu lâu nó vẫn tự động đến thăm tôi một lần trong giấc mộng...

 

Ngô Viết Trọng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.