Hôm nay,  

Lá thư gửi Mẹ

13/05/202321:23:00(Xem: 4336)
Tùy bút Mother's Day

vtduong


Mẹ ơi thôi đừng khóc nữa

Cho lòng già nặng sầu thương

Con đi say tình viễn xứ

Đâu có quên tình cố hương

(Lá Thư Gửi Mẹ, thơ Thái Thủy, nhạc Nguyễn Hiền).

 

***

 

Từ nghìn xưa cho tới nay, từ Đông sang Tây, hình bóng người mẹ vô cùng cao quý, thiêng liêng, sự hy sinh vô bờ bến trong tình mẫu tử, với trái tim đầy nhân ái, với tâm hồn cao cả đã in sâu trong lòng người con từ lúc sinh ra cho đến khi lìa đời. Hình bóng đó đã được thể hiện qua thơ, văn, nhạc và trong nhiều lãnh vực khác, không thể nào liệt kê hết trong bao nhiêu tác phẩm của nhân loại.
     Sống trên xứ người, mỗi năm vào dịp Mother’s Day (Ngày Lễ Mẹ) cũng là ngày đáng quý để nhắc nhở đến bậc sinh thành đã “mang nặng đẻ đau” nuôi nấng, dạy dỗ cho con nên người. (Ở Mỹ, ngoài hai ngày Mother’s Day vào Chủ Nhật, tuần lễ thứ hai của tháng 5 và Father’s Day vào Chủ Nhật, tuần lễ thứ ba của tháng 6. Ngoài ra còn có Grandparent’s Day / Ngày Ông Bà. Tổng Thống Jimmy Carter chỉ định Chủ Nhật đầu tiên của tháng 9 là Grandparent’s Day). Với thế hệ thứ hai của chúng ta chỉ nhớ hai ngày trên (Mother’s and Father’s Day) nhưng với thế hệ thứ ba thì chẳng biết gì về Grandparent’s Day.
     Trải qua thời kỳ chiến tranh và giai đoạn phải gánh chịu khó khăn, khổ cực, gia đình tôi may mắn cũng được hưởng chữ “thọ” nên khi các chị mất, con cái đã trưởng thành, trọn tình hiếu nghĩa khi tang lễ, lo mồ yên mả đẹp.
     Mẹ tôi mất năm 1990, hưởng đại thọ 90 tuổi. Gần ba thập niên sau, chị Hai (chị Cả) mất năm 2017, hưởng đại thọ 92 tuổi. Chị Bảy (người chị kế) mất năm 2018, hưởng thọ 78 tuổi). Chị Sáu vừa mất ngày 14/1/2023, hưởng đại thọ 87 tuổi). Nay chỉ còn chị Bốn đã 94 tuổi ở Hội An và chị dâu (vợ anh Năm) đã 90 tuổi, ở Đà Nẵng. (Trong gia đình thường gọi ngôi thứ các anh chị em).
     Với các cháu nội, ngoại đã một thời sống gần gũi với bà đã in đậm hình ảnh cao quý với bao đức tính cao cả nên sau nầy nói rằng mẹ các cháu (kể cả người chị dâu) là bản sao y hệt. Và, với truyền thống của người Việt từ thời xa xưa, hầu như con gái là bản sao chân dung của người mẹ. Qua thơ, văn, nhạc… với hình ảnh đó được đề cập rất nhiều.
     Thời học sinh nơi phố cổ Hội An, tôi đã đọc tập truyện Quê Mẹ của nhà văn Thanh Tịnh (trong tập truyện nầy có truyện ngắn Quê Mẹ và Tôi Đi Học) với Lời Tựa của Thạch Lam. Tập truyện Nhà Mẹ Lê của nhà văn Thạch Lam, ấn hành vào thời tiền chiến. Lòng Mẹ và Tôi Là Mẹ của nhà văn Lê Văn Trương… Những hình ảnh đó đã gợi lòng thương cảm trong tâm hồn tuổi thơ, vô cùng cảm động.
     Nhà văn Mỹ Zora Neale Hurston vào đầu thế kỷ XX đã nói: “Mẹ là người luôn khuyến khích những đứa con của mình hãy bay thật xa. Có thể chúng ta không thành công, nhưng ít nhất bà đã khiến chúng ta nhấc đôi chân của mình lên khỏi mặt đất”. Bà Hurston là văn sĩ người Mỹ nhưng tâm hồn giống như những bà mẹ Việt Nam, không muốn rời nơi chốn, cố hương nhưng mong muốn “những đứa con của mình hãy bay thật xa” để tạo dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
     Từ hồi còn học sinh, “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” cũng nghịch ngợm, phá phách, nghe nói, có người “méc” cho biết nhưng với tấm lòng bao dung, độ lượng nên không bị quở trách mà còn cho rằng những đứa trẻ nầy lớn lên thường có hiếu. Khi dấn thân vào quân ngũ, nay đây mai đó, không có dịp sống gần gũi với mẹ, thỉnh thoảng mới về thăm mẹ. Đúng vậy, nhà văn Pháp Balzac đã nói: “Trái tim mẹ là vực sâu muôn trượng mà ở dưới đó bạn sẽ luôn tìm thấy sự tha thứ”. Chân dung người mẹ là biểu tượng cao quý của sự hy sinh cao cả và lòng bao dung vô bờ bến.
     Sau tháng Tư năm 1975, tôi ở trong lao tù, mẹ ở nơi xa xôi, không được gặp nhau lần nào, có lẽ mẹ tôi đã khóc rất nhiều cho đứa con trong hoàn cảnh nghiệt ngã! Trong giây phút lâm chung, mẹ tôi mê man, các anh chị bên cạnh, không có tôi, sức mạnh vô hình thiêng liêng phù hộ mẹ tôi mở mắt và hỏi: “Nó đi Mỹ chưa?” Anh chị đành nói dối “Nó đi rồi”, mẹ tôi nhắm mắt, yên tâm vĩnh biệt trần gian! Khi tôi về phục tang trước khi đi Mỹ, nghe những lời cuối cùng, nước mắt lưng tròng! Đây là điều bất hạnh và ân hận trong cuộc đời. Với người mẹ, không nghĩ đến sự sống, chết của bản thân mà suốt đời chỉ quan tâm đến con cái.
     Còn tôi, trong tháng ngày đen tối, không có điều kiện để báo hiếu công ơn dưỡng dục với bậc sinh thành. Không có cái tội nào dày vò canh cánh trong lòng bằng cái tội nghèo cho bản thân và với những người thân! Trong hoàn cảnh đó, chỉ mong có cơ hội “cất cánh bay xa” mong có dịp đến đáp. Nhưng rồi, chỉ còn trong tâm tưởng với hình bóng cao quý nơi cõi thiên thu!
     Với hàng trăm, hàng nghìn câu nói, danh ngôn về người mẹ, nếu chọn lọc và gom lại mới thể hiện được chân dung người mẹ.
     Cảm ơn đất nước Hoa Kỳ với Mother’s Day, nhân đây mới có cơ hội để viết Lá Thư Gửi Mẹ nơi vĩnh hằng.

 

– Vương Trùng Dương

(Little Saigon, Mother’s Day, 2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.