Hôm nay,  

Đưa Cay

27/10/202300:00:00(Xem: 2745)

Logo cho fb

Rượu có chi cay mà uống rượu phải đưa cay. Tôi phân vân về chữ “đưa cay” này. Gọi quách một cách trực tiếp như dân miền Nam: nhậu là phải có mồi. Như đi câu cá. Cá đớp mồi cá sẽ lên bàn nhậu. Nhậu một hồi sẽ “quắc cần câu”. Quắc cần câu là… xỉn, thân hình đi đứng liêu xiêu cong như cái cần câu cá. Xỉn quắc cần câu có biệt tài tự về tới nhà, lăn ra ngủ, khi tỉnh dậy chẳng nhớ cái chi chi. Tại sao người quắc cần câu lại có biệt tài như người mộng du vậy? Mỗi khi con người trải nghiệm được một thứ mới, thùy trước trán sẽ lưu giữ những thông tin này theo dạng trí nhớ ngắn hạn. Sau đó hồi hải mã nằm ở não trước sẽ ghi những thông tin ngắn hạn này để tạo thành ký ức dài hạn. Đường truyền từ thùy trước trán tới hồi hải mã cần có những neuron thần kinh đặc biệt dẫn lối. Say xỉn khiến những neuron này không còn hoạt động. Vậy là xỉn xong ngủ dậy chẳng còn nhớ mô tê gì hết!

Bợm nhậu uống rượu suông cũng được. Nhưng thông thường nhậu phải có mồi, vừa ăn vừa uống, nhẩn nha đưa chất cay vào miệng mới thú. Nếu quần tam tụ tứ chuyện trò rôm rả thì càng thú vị hơn. Bàn rượu là một tổng hợp của rượu, mồi và bạn nhậu. Nhậu vậy mới thành một bàn nhậu chân truyền.

Anh em Montreal chúng tôi thường nhậu như vậy. Nhậu sương sương chứ không quắc cần câu.Quắc cần câu sao lái xe về đặng. Rượu của chúng tôi thường là rượu vang. Cỡ tôi thì cứ có tí chất đo đỏ đổ vào miệng là OK nhưng với hai ông Trang Châu và Hoàng Xuân Sơn chuyện lại khác. Cái miệng hai ông này là miệng… rượu. Rượu cũng như đàn bà, có thứ này thứ kia, ông thích loại này, tôi thích loại kia. Hai ông thử hết thứ nọ tới thứ kia, rượu Pháp, rượu Chili, rượu Ý, rượu Tây Ban Nha, rượu Argentina, mỗi lần nhậu lại mang rượu ra so sánh. Đó là khi mới nhập bàn, khi môi đã mềm, đầu óc đã lâng lâng, các ông ấy cũng như tôi, có cái chi đo đỏ là được. Trên bàn nhậu còn cái chi ăn được là ăn. 

Nếu ông Tản Đà sống lại chắc ông sẽ trợn mắt. Quần tam tụ tứ phá rượu phá mồi như vậy là mất cái uy của việc nhậu. Tản Đà không nhậu mà nhắm rượu. Mỗi cuộc rượu trang trọng như một buổi lễ. Vũ Bằng khi còn là một cậu học trò của trường Hàng Vôi đã sùng bái chuyện Tản Đà nhắm rượu: “Chiều nào, bất cứ bận việc gì, tôi cũng tà tà đi đến trước cửa nhà Thăng Long, dán mũi vào cửa kính, nhìn vào trong để xem ông Tản Đà vừa quạt cái hỏa lò con để trên giường vừa nhắm rượu một mình. Tôi sợ ông như một ông tiên”. 

Chuyện đưa cay của Tản Đà được Nguyễn Tuân kể lại: “Chắc cậu chưa quên, khi dư dả nhuận bút, mâm rượu của Tản Đà là cả một hợp thành của màu sắc, hương, vị, và âm giai. Chiếc mâm gỗ mít hình chữ nhật vành son, lòng cánh sen. Trong đó, thi nhân phô bày những chiếc đĩa sứ trắng nhỏ xíu như bàn tay trẻ con, những chiếc bát lá đề tinh xảo. Nào chanh xanh cắt tư. Nào rau húng láng, nào rau ngổ, ngỏng lên trái ớt đỏ tươi. Tương Bần ong óng. Sậm đặc nước mắm Ô long. Hạt tiêu sọ, hạt tiêu đen. Bọc tinh cà cuống, hành hoa, hành củ, mỡ gà chưng ớt bột, vừng xát vỏ, lạc rang, bánh đa, bánh phở… Đặc sắc ở cái những thứ gia vị ấy được đựng riêng cho mỗi thực khách, của ai người nấy chấm. Mâm rượu dù sáu hay bốn thì dứt khoát phải có hai nậm rượu để nghiêm ngắn hai bên”.


Cái triết lý nhắm rượu của nhà thơ xứ Tản đã được người đời sau nhắc đi nhắc lại: “Đồ ăn không ngon thời không ngon, giờ ăn không ngon thời không ngon, chỗ ngồi ăn không ngon thời không ngon, không được người cùng ăn cho ngon thời không ngon. Ăn mà có lo nghĩ sao cho ngon? Có tức giận sao cho ngon? Có sợ hãi sao cho ngon? Có thương tủi sao cho ngon? Có hổ thẹn sao cho ngon?” Uống rượu như dọn mình nghe kinh!

Nhắm rượu cũng cùng cỡ với mần văn chương. Nhà thơ kiêm nhà rượu ví von: “Ăn là tất cả một nghệ thuật, mà nghệ thuật ăn nhiều khi lại khó hơn nghệ thuật viết văn. Văn chương có giống như mâm gỏi. Đĩa cá lạng, đĩa dấm ngọt thời người thường dễ ăn, còn miếng mắt miếng xương phải đợi con nhà gỏi. Văn chương có giống như thịt chim. Xào, thuôn, nướng chả thì dễ chín, hấp cách thủy lửa không đến mà nhừ hơn!”.

Tản Đà uống rượu phải có đưa cay. Không phải đưa qua quít cho có lệ mà phải tinh tế, trò nào ra trống nấy. Mai Thảo “đếch” cần những chuyện đó. “Đếch” là thương hiệu của Mai Thảo. Cái chi ông cũng đếch. Cô cháu Orchid Lâm Quỳnh nhận xét: “Cái gì bác cũng “đếch” hết. Mà như khi nào để tỏ dấu âu yếm, thương mến bác mới dùng chữ đếch”. 

Rượu, đủ rồi! Nguyên Sa thơ cho Mai Thảo: Ông ngồi với hai ông Tây / Ông kia tên Mạc, ông này tên Cô / Buổi sáng ông chỉ say vừa / Nửa khuya mới tới đúng mùa nho ngon. Gu của Mai Thảo là cognac Martel chai mờ. Mỗi lần qua Cali, tôi bê một ông Tây Martel tới ông, vậy là cười mỉm vừa ý. Trong căn chung cư nhỏ dành cho người già, chỉ cần rượu. Hai người, bốn người hay chỉ mình ông, rượu vẫn “đúng mùa nho ngon”. Rượu mình ên, đủ rồi, không cần những thứ bá láp đi kèm.

Khi ông sang Montreal chơi, đúng gu Pháp của một nước Pháp tại Bắc Mỹ, sáng cà phê vỉa hè trên đường Saint Denis, tối rượu tràn môi với anh em văn nghệ. Rượu: phải Martel. Bạn rượu: phải anh em sáng tác. Và chỉ những người sáng tác. Mấy nhà phê bình không nên cho ngồi chung. Mồi đầy bàn nhưng ông chẳng màng tới chuyện đưa cay. Ông uống, thúc giục anh em kêu mồi cho nhà hàng có tí tiền vào. Chỗ ngồi uống nhà hàng không tính tiền, chỉ tính món nhậu kêu ra. Không kêu cho xứng với công của nhà hàng đâu có được. Ông tì tì uống, hầu như không cần đưa cay. Ngồi tượng hình riêng một góc quầy / Tiếng người: kia, uống cái chi đây? / Uống ư? Một ngụm chiều rơi lệ / Và một bình đêm rót rất đầy.

Nhìn mọi người gắp gắp chan chan là đủ. Ông uống bằng miệng nhưng nhắm bằng quây quần bè bạn. Rượu, tự thân đã đủ. Chất lỏng như một sự cứu rỗi. Ông sống như vậy, vui như vậy, chiêm nghiệm như vậy. Thế giới có triệu điều không hiểu / Càng hiểu không ra lúc cuối đời. Khi ông đã “đếch” thèm sống, ông có hiểu thêm được chi không? Đếch ai biết. Bạn bè tới thăm viếng vẫn đổ rượu trên mộ phần. Chắc ông vẫn uống. Hình như chẳng ai mang các thứ đưa cay tới. Biết nhau quá mà. Uống ư? Một ngụm chiều rơi lệ!

Song Thao
10/2023
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
(Hollywood, 15 tháng 12) - Giới điện ảnh Hoa Kỳ và cả chính trường Washington đồng loạt phản ứng gay gắt sau khi Tổng thống Donald Trump đăng một lời bình bị xem là vô cảm và cay độc về cái chết của đạo diễn Rob Reiner và Vợ Michele Reiner. Trên mạng Truth Social, Tổng thống viết rằng Reiner “đã qua đời vì cơn giận dữ do chính ông ta gieo ra cho người khác,” rồi gán cho ông một thứ gọi là “hội chứng rối loạn ám ảnh Trump,” trong lúc bi kịch gia đình vẫn còn chưa ráo máu, theo tờ Daily Mail.
Một chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng – từng nằm im dưới đáy Bắc Đại Tây Dương hơn một thế kỷ – vừa được đánh thức khỏi giấc ngủ dài bằng mức giá kỷ lục: 1,78 triệu bảng Anh. Chiếc đồng hồ ấy thuộc về Isidor Straus, người cùng sáng lập chuổi cửa hàng Macy’s, một thương gia 67 tuổi đã nằm lại cùng con tàu huyền thoại Titanic trong đêm định mệnh năm 1912. Chiếc đồng hồ – một mẫu Jules Jurgensen 18 carat khắc chữ, được tặng nhân sinh nhật lần thứ 43 của ông vào năm 1888 – nay trở thành hiện vật Titanic có giá cao nhất từng được bán. Kỷ lục cũ vốn thuộc về một chiếc đồng hồ vàng khác từng được trao cho thuyền trưởng con tàu cứu hơn 700 người, bán năm ngoái với giá 1,56 triệu bảng.
Thỉnh thoảng chúng tôi hay tới thăm ông niên trưởng Hải Quân của tôi. Ông đã gần 90 tuổi, mái tóc đã bạc trắng, bên khuôn mặt nhiều vết nhăn, đi đứng chậm chạp, nhưng ông vẫn minh mẫn, trí nhớ vẫn rành rẽ về những câu chuyện thời cuộc xa xưa, và hát vẫn rất hay. Lần thăm viếng vừa qua, ngồi nói chuyện với ông lâu hơn. Trong câu chuyện ông kể: “mình qua đây làm việc vất vả, mong ngày về hưu đưa vợ con đi du lịch cho biết đó biết đây, nhưng không thành, vì bà vợ bị tai biến mạch não khiến nửa người bị tê liệt phải ngồi xe lăn đã 25 năm qua, đi đâu cũng khó khăn”. Tôi bồi hồi xúc động, nhìn ông với tất cả sự cảm thông.
Cuộc sống này không có ai là hoàn hảo mà cũng không có cái gì là hoàn toàn, tất cả mọi sự vật trên đời này đều có khiếm khuyết và không vĩnh cửu. Chính vì thế nếu ai cố gắng đi tìm sự tuyệt đối, họ sẽ thất vọng. Câu thơ trên muốn nói lên ý tưởng, hãy chấp nhận và trân trọng những khiếm khuyết của nhau để chúng ta tới gần nhau hơn, hiểu nhau hơn. Nhà khoa học nổi tiếng Stephen Hawking còn đi xa hơn nữa, ông khẳng định „Nếu không có sự không hoàn hảo, cả bạn và tôi đều không tồn tại” ("Without imperfection, neither you nor I would exist."). Ông muốn nói sự „không hoàn hảo“ của vũ trụ, những giao động đột biến trong quá trình tiến hóa, những sai lệch trong định luật vật lý đã là những điều kiện để tạo nên sự sống trong đó có con người.
Suốt hơn nửa thế kỷ qua, Nghịch Lý Fermi (Fermi Paradox) luôn là một câu đố hóc búa ám ảnh giới thiên văn học. Nói một cách ngắn gọn, nghịch lý này đặt ra câu hỏi: Nếu vũ trụ đã gần 14 tỷ năm tuổi, một khoảng thời gian quá đủ để các nền văn minh tiên tiến, xã hội hiện đại, công nghệ cao phát triển và du hành giữa các vì sao, vậy thì tất cả họ đang ở đâu? Sao chưa có ai ghé qua Địa cầu để “chào một tiếng”?
Trong một bài viết đăng trên trang mạng Psychology Today, Tiến Sĩ Jeff Degraff kể lại một trải nghiệm khá thú vị của mình. Ông cho biết cách đây không lâu, ông bị mắc kẹt. Không phải là kẹt xe hay xếp hàng, mà là một khoảnh khắc mịt mờ về mặt tinh thần. Ông không thể suy nghĩ sâu sắc, không thể cảm nhận được những gì mình đang tiếp xúc. Rồi bất chợt một bài hát hiện lên trong đầu. Không phải bài hát mới nghe gần đây, và cũng không phải bài hát mà ông yêu thích. Nhưng lời bài hát thật sự chạm đến trái tim của ông. Chúng nói lên một điều gì đó mà ông không thể diễn đạt thành lời. Giống như não không muốn nói những lời đơn giản, nên đã quyết định cất tiếng hát.
Cựu Ước chép: “Thiên Chúa lấy đất sét nặn ra ông Adam theo hình ảnh của Ngài. Sau đó làm ông mê đi rồi rút một chiếc xương sườn ra tạo thành bà Eva, dẫn tới tặng cho ông Adam. Ông nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra”. Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau”. Đọc đoạn sách Sáng Thế Ký này, tôi bâng khuâng. Vậy là hai ông bà chưa trưởng thành, nhìn nhau như hai đứa trẻ ở truồng tắm mưa, chẳng động tĩnh chi. Thua xa ông Luân Hoán.
Sáng Chủ Nhật, ngày 19 tháng 10, giữa lúc khách tham quan vẫn đang tấp nập trong viện bảo tàng Louvre, một nhóm gồm bốn tên trộm bịt mặt đã thực hiện vụ trộm liều lĩnh hiếm thấy. Bốn kẻ bịt mặt đã đột nhập Bảo Tàng, dùng cần cẩu phá vỡ cửa sổ tầng trên của tòa nhà Galerie d’Apollon, khu trưng bày các bảo vật hoàng gia Pháp, cuỗm đi những món báu vật vô giá rồi tẩu thoát bằng xe gắn máy (motorbike).
Trong một đêm nhạc thính phòng trình bày nhạc Từ Công Phụng và Ngô Thụy Miên được tổ chức tại Vancouver, Canada, ít năm trước đây với sự có mặt của hai nhạc sĩ, tôi có tham dự. Phần đầu các ca sĩ hát nhạc của họ Từ, phần sau nhạc của họ Ngô, có nghỉ giải lao ở giữa. Trong giờ giải lao, tôi vào sau sân khấu để hàn huyên với ca sĩ Diễm Liên. Chúng tôi đang nói chuyện thì nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đi ngang qua, nói với Diễm Liên: “Nhớ hát đúng lời nhạc nhé!”. Diễm Liên le lưỡi, cười. Tôi giữ ý đi ra cho cô…ôn bài.
Ai cũng biết rằng học chơi nhạc cụ có thể mang lại nhiều lợi ích bên ngoài lĩnh vực âm nhạc. Nhiều nghiên cứu cho thấy chơi nhạc rất tốt cho não bộ, giúp cải thiện các động tác tinh tế, khả năng tiếp thu ngôn ngữ, đối thoại, trí nhớ, giúp não bộ chậm lão hóa. Sau nhiều năm làm việc với các nhạc sĩ, chứng kiến họ kiên trì luyện tập âm nhạc bất chấp cơn đau do thực hiện hàng ngàn động tác lặp đi lặp lại, một nhà nghiên cứu thần kinh học Đan Mạch đặt câu hỏi: nếu luyện tập âm nhạc có thể thay đổi não bộ theo nhiều cách như kể trên, liệu nó có thể thay đổi cách các nhạc sĩ cảm nhận cơn đau?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.