Hôm nay,  

Đêm chia tay ở Tà Niên

02/03/202406:40:00(Xem: 2633)
Truyện

chia tay

1.

Khoảng chín giờ tối, tôi lặng lẽ rời trường đi về hướng giếng Cây Trâm như lời hướng dẫn. Đèn đường lưa thưa, nên đoạn đường tối lờ mờ không nhìn rõ mặt người. Đêm như lặng lẽ bắt đầu với vài cơn gió hanh hanh mùi rạ khô dọc ven đường. Vừa đi tôi vừa cố nghe ngóng những động tĩnh chung quanh và mong rằng không gặp mặt học trò hoặc người quen. Lòng dạ xôn xao, cả ngày hôm nay tôi chẳng làm gì ra hồn và gần như không nuốt được buổi cơm chiều. Mặc dù đã hứa, tôi cứ mãi đắn đo không biết có nên giữ lời hứa đó hay không? Đây là buổi hẹn rất nguy hiểm cho người gặp gỡ và có khi sẽ là một lần vĩnh viễn chia tay. Những ngày tháng gần đây Rạch Giá trở thành nơi tập trung cho những chuyến ra đi, những chuyến ra đi biền biệt quê nhà. Ngôi trường cấp 3 Rạch Sỏi nhỏ bé của tôi cũng không ngoại lệ. Học trò bàn chuyện "vượt biển" nhiều hơn chuyện học. Thầy cô mỗi ngày nhìn xuống lớp, vài khuôn mặt mất đi giữa ghế bàn. Đôi lúc phải dồn lớp dạy mới đủ số học sinh. Đã có nhiều buổi chiều học sinh vào trường như thăm viếng thầy cô và để kín đáo nói lời chia tay. Ở tuổi các em "ăn chưa no, lo chưa tới" mà đã phải tự làm người lớn, vượt ngoài ý thức của bản thân. Một thế hệ "lớn trước tuổi", toan tính hoang mang nhiều hơn mơ mộng sách bài. Nhiều thầy cô giáo phải "nổi giận" vì tinh thần học tập sa sút của các em. Tôi thương các em nhiều hơn bao giờ hết. Nếu tôi là các em chắc cũng không thể làm khác, nhiều khi còn tệ hại hơn không chừng? Vì thương con, cha mẹ đã đẩy các em "ra khơi" mong sẽ tìm được một cuộc sống, một tương lai tốt đẹp hơn. Chỉ với hành trang là những tờ giấy trắng, các em phải làm gì cho những bước đường vô định, tương lai may rủi nơi bên kia xứ lạ quê người?
    –  Thầy Hoàng... thầy Hoàng phải không?
    Tiếng gọi làm tôi giật mình, dừng bước chân lại. Chiếc xe lôi trờ tới, trời tối không nhìn rõ mặt người đàn ông chạy xe.
    –  Dạ... tôi đây. Tôi là thầy Hoàng.
    –  Thầy lên xe, tôi đưa thầy về Tắc Cậu.
    Giọng người đàn ông rắn rỏi, chắc không còn trẻ. Mọi việc đúng như lời căn dặn của Dung, tôi bước vội lên chiếc xe lôi... Rồi không ai nói gì thêm, người đàn ông đạp chiếc xe lôi đưa tôi qua khỏi giếng Cây Trâm chạy về hướng Minh Lương. Tuy trời tối nhưng vì quá quen thuộc nên tôi có thể đoán được đoạn đường hai bên. Chạy một lúc sau, người đàn ông chợt quay xe trở ngược lại đường cũ. Có lẽ do thận trọng, tôi chỉ biết ngổi yên lặng phía sau. Đến ngã ba Sua Đũa thì chiếc xe lôi quẹo trái vào phía Tà Niên. Vài chiếc xe gắn máy vượt qua để lại những vệt đèn sáng phía trước. Đây là đoạn tôi có nhiều nhà của học trò chạy dài cho đến chợ Tà Niên và cả bến đò Tắc Cậu. Thật tình mà nói, tôi chẳng biết chiếc xe lôi sẽ đưa tôi đi đâu, ghé nơi nào? Chỉ biết đêm nay tôi sẽ đến nơi đưa tiễn LTT Dung, người bạn gái thân thương của những ngày tháng ở đại học sư phạm Sài Gòn. Cũng đêm nay ba chị em Dung sẽ cùng gia đình chồng tương lai rời bến ra khơi ở Tắc Cậu. Đây là chuyến đi "bán chính thức", tương đối an toàn vì mỗi người hình như phải đóng số tiền khá lớn: 10 cây vàng. Đó là chưa kể ba chị em phải mua giấy chứng nhận người Việt gốc Hoa, với một giá không phải rẻ. Vì hầu hết tổ chức dành cho người Việt gốc Hoa, mua tàu mua bãi của các chuyến vượt biển này. Tôi không biết rõ, chỉ nghe Dung nói lại. Cuộc hôn nhân của người đẹp khoa Anh ngữ: LTT Dung là ba chỗ cho nàng cùng hai đứa em trai, quà cưới của gia đình bên chồng? Chạy vào một khoảng không xa, chiếc xe lôi chợt chậm lại rồi ngừng trước cỗng của một căn nhà vườn. Tôi lo lắng, đúng ra phải vào tận Tắc Cậu kia mà. Đây là Tà Niên, nhà học trò tôi cùng khắp con đường này. Có lẽ đây cũng là đoạn đường đẹp nhất Tà Niên với những vườn khóm thẳng tấp, với những ao bông súng tím thẳm sau nhà. Tôi nhớ hình như nhà vườn của em Sĩ cũng ở gần đâu đây? Tôi có ghé căn nhà vườn trồng khóm của gia đình Sĩ vài lần. Rồi nhà của chị em Thanh Nga, Thanh Sơn... được mệnh danh là "con chim sơn ca" của trường cấp 3 Rạch Sỏi cũng ở Tà Niên...  Nhưng hình như từ ngả ba Sua Đũa đi vào, không gần đến như vậy. Nếu bị học trò bắt gặp tôi không biết phải giải thích thế nào cho ổn thỏa: đang đêm thầy Hoàng vào đây để làm gì?
    –  Thầy Hoàng dô nhà... Cô Dung đang ở trổng!
    Giọng người đàn ông đứng tuổi, kéo tay tôi bước vào nhà. Bên trong tôi đã thấy Dung đứng phía sau chiếc tủ thờ lớn. Nụ cười quen thuộc nở khó khăn trên khuôn mặt mệt mỏi của người con gái.
    –  Anh tưởng là Dung ở Tắc Cậu?
    –  Có chút thay đổi nên chưa kịp báo cho anh biết. Anh vào đây có gặp khó khăn gì không?
    –  Không, mọi chuyện bình thường. Gặp được Dung là mừng lắm rồi.
    –  Theo em...
    Tôi theo chân Dung rời nhà trên, đi xuống phía nhà sau. Căn nhà dài qua vài căn phòng khá khang trang, phía sau là căn bếp lợp lá với chiếc bàn ăn tròn. Ngồi quanh chiếc bàn là hai thanh niên trẻ và người đàn bà đứng tuổi độ năm mươi cùng mấy tô cháo ăn lỡ. Mùi cháo cá và rau đắng nồng ấm gian nhà.
    –  Dũng, Cường hai em trai của Dung. Đây là dì Sáu, đi chung... Anh ngồi ăn chút cháo cá, nghen anh?
    Tôi lắc đầu nhìn khuôn mặt lúng túng của Dung. Chưa bao giờ tôi thấy Dung như đêm nay! Nét kiêu sa trên khuôn mặt đẹp không còn nữa, mà những lo âu có chút sợ sệt khiến nàng trở nên vụng về. Có thể mấy đêm qua Dung đã không ngủ được. Không khí căn phòng chừng như căng thẳng, không ai muốn lên tiếng nói gì. Buổi ăn tối vội vã kết thúc, hai em trai Dung và người đàn bà đi chung chào tôi rồi lặng lẽ đi lên nhà trên. Họ tìm chút nghỉ ngơi cho cuộc hành trình dài, vô định sắp tới? Căn nhà bếp chỉ còn lại tôi và Dung. Có lẽ đã nửa đêm. Tôi ngồi xuống bàn đối diện nàng, nhìn bâng quơ không biết phải nói gì trước.
    Có quá nhiều người đã bỏ ra đi. Có người tôi quen, có người yêu dấu. Những mất mát, đắng cay của quê hương không cầm chân được ai? Đêm nay tôi lại tiễn đưa thêm một người bạn gái thân thương của nhiều tháng ngày quen biết. Đã qua khỏi mức bạn bè, nhưng chưa lần vượt qua tình yêu như thể. Tôi có chút gì đó ngần ngại. Dung cũng dùng dằng ở mức đón đưa...
    –  Mấy giờ thì Dung vô Tắc Cậu? Tôi lên tiếng phá bầu không khí căng thẳng, khó thở.
    –  Ba giờ sáng. Để Dung pha cho anh ấm trà...
    Chỉ còn vài tiếng nữa. Đêm luôn dài, nhưng bây giờ sao quá ngắn. Nét lo âu, mệt mỏi làm khuôn mặt Dung đẹp nhiều hơn. Đêm nay có lẽ Dung sẽ không phàn nàn, nếu tôi có tham lam nhìn nàng không rời mắt. Nhìn vệt chân mày rậm vắt ngang đôi mắt như biếng lười chăm sóc. Nhìn đôi môi ướt nhỏ, thỉnh thoảng bím chặc suy tư. Nhìn khuôn mặt thanh tú rõ từng sợi lông măng lưa thưa dọc đường chỉ tóc mai. Tôi nâng niu từng giây phút nầy với Dung như trân trọng tình bạn giữa tôi và nàng. Tình yêu sẽ là sự chiếm ngự, chỉ có tình bạn là chia sẻ, quý trọng lẫn nhau. Tình yêu sẽ  cho bạn hạnh phúc và khổ đau. Tình bạn sẽ làm cho bạn thăng hoa và rộng lượng.
    –  Mình ra ngoài uống chút trà đi anh. Bên trong nhà nóng quá! Dung đưa tách trà cho tôi, nói nhỏ.
    Bây giờ tôi mới cảm thấy hơi nóng hâm hâm trong căn nhà bếp. Hai đứa ngồi xuống bên hiên mái hè, trời tối đen hòa vào tiếng côn trùng, ếch nhái kêu đêm. Có quá nhiều câu hỏi cho Dung, nhưng không hiểu sao tôi vẫn yên lặng. Mấy ngụm trà nóng khiến tôi tỉnh táo hơn, thỉnh thoảng vài cơn gió thổi nhẹ mùi hương con gái nồng nàn.
    –  Anh nói với Dung hay hỏi Dung câu gì đi anh?
    Chừng như nói câu nói, mọi câu hỏi đều trở nên vô nghĩa và trống rỗng. Chừng như chỉ có sự yên lặng là ngôn ngữ của cuộc chia ly? Đêm vây phủ như có bàn tay mềm mại đang ôm phủ bàn tay tôi ấm áp. Trong hơi ấm của bàn tay Dung sao tôi nghe như có tiếng thở dài. Tiếng thở dài đáng lẽ không nên có ở một người con gái. Người con gái đẹp, thông minh và mang niềm kiêu hảnh trong ánh mắt của người chung quanh. Đã có người tự tử vì nàng, đã có người buông bỏ tất cả tiền tài, gia đình để chỉ được có Dung. Chuyến đi này là tất cả những gì người đàn ông đó dành cho nàng và hai đứa em trai.
    –  Rồi Dung sẽ đến được bến bờ hạnh phúc. Anh sẽ cầu nguyện cho Dung, cho mọi người...
    –  Tất cả những điều anh nói là của ngày mai... Bây giờ Dung đang ở đây. Dung chỉ muốn hiện tại, đang bên cạnh anh...
    Vài sợi tóc theo gió đêm Tà Niên vướng lòa nhòa trên mặt tôi. Hơi thở của Dung thật gần. Thật gần để bất chợt có bàn tay kéo khuôn mặt tôi vào chạm bờ môi con gái. Nụ hôn bỡ ngỡ, vụng về rồi bám chặc không rời. Nụ hôn dài như hương từng rẫy khóm của đêm Tà Niên ngọt lịm.
    –  Để anh đừng quên Dung... Để anh sẽ nhớ Dung...    
    Nụ hôn để nhớ, không phải để yêu. Không hiểu sao tôi nghe tiếng nấc nghèn nghẹn của Dung. Tôi rất sợ nước mắt, nhất là nước mắt của con gái. Như phản xạ tự nhiên, tôi kéo khuôn mặt nàng áp vào ngực của mình. Nước mắt của buổi tiễn đưa nào mà không thắm mặn. Đêm Tà Niên cuộn tròn thương tiếc, vùn vụt trôi nhanh.
    –  Cô Dung ơi, đã tới giờ... Phải đi rồi cô Dung!
    Tiếng người đàn bà thì thào, hối thúc. Tôi kéo tay Dung đứng dậy đi vào. Bên trong mọi người trên tay một chiếc xách nhỏ chờ đợi. Không khí trở nên căng thẳng, ngột ngạt. Lấy một xách tay góc nhà, Dung đưa cho tôi:
    –  Nhờ anh đưa lại cho gia đình Dung...
    Rồi chừng như không nói gì thêm được nữa, Dung cúi đầu đeo chiếc giỏ xách bước theo mọi người. Bên ngoài trời vẫn tối đen. Mấy chiếc xe lôi đang chờ sẵn, lặng lẽ đưa nhóm người chìm vào đêm tối. Tôi cầm chiếc xách tay, lên chiếc xe lôi khác quay trở lại trường. Đồng hồ đeo tay tôi chỉ 3 giờ 45 sáng ngày 4 tháng Ba, năm 1978 ở xóm nhỏ Tà Niên.
                       
2.
Đã hơn bốn mươi năm, thời gian thoáng chốc. Tất cả mọi đổi thay như xô đẩy chúng ta đi vào biết bao định mệnh đời người. Số phận không nói lên hoàn cảnh và đôi khi cùng hoàn cảnh lại có muôn vàn số phận khác nhau... Vài tuần lễ sau của đêm hôm đó, tôi đã đem chiếc xách tay đến cho gia đình Dung ở Sài Gòn. Nhưng mãi đến gần 4 tháng sau, tôi mới được tin của Dung từ gia đình nàng. Chuyến đi của Dung đã không đến được bến bờ tự do. Con tàu định mệnh đó vĩnh viễn nằm lại lòng biển rộng. Phải mất nhiều đêm, nhiều ngày tháng sau này để tôi có thể chấp nhận được sự thật đau xót này. Tất cả chừng như không có một hình ảnh nào, một vết tích nào để khỏa lấp ánh mắt, nụ cười và đôi môi hôn ấm của đêm chia tay vội vã ở Tà Niên. Tôi vẫn luôn tin rằng một nơi nào đó trong vùng trời tự do vĩnh cửu, Dung đang vun đấp cuộc sống có thật của mình. Nơi đó sẽ không còn khổ đau, không còn những hệ lụy cưu mang cho một kiếp người... Biển rộng bao la nhưng biển cũng hẹp tay người. Hình ảnh người con gái trong đêm chia tay ở Tà Niên luôn sống mãi trong tôi. Nụ hôn vội vàng để nhớ, là nụ hôn tha thiết nhất một đời có được:
 
... Tình yêu như biển
Biển hẹp tay người
Biển hẹp tay người lạc lối
Em đi về nơi ấy
Nơi đâu nơi đâu
Sông cạn đá mòn
Trăng treo đầu con sóng
Tan theo tan theo
Chút tình xa vắng...
(1)
                       
Mỗi số phận của chúng ta, đôi khi gắn liền với những biến động của hoàn cảnh và lớn rộng hơn, của lịch sử. Nhưng đôi khi, số mệnh của chúng ta lại lặng yên nằm bên lề của mọi cơn lốc cuộc đời. Dù ở phía nào đi nữa, sự hữu hạn của kiếp người, chỉ cho mỗi chúng ta chiêm nghiệm được một phần thật nhỏ nhoi của thân phận. Không có mẫu số chung cho định mệnh. Hãy mở rộng mọi ý thức và đừng bao giờ đóng kín những đổ vỡ của trái tim. Cuộc đời sẽ tin yêu ta, nếu ta đặt trọn mọi tin yêu có thể cho người. Lá khô rụng kín mùa này là mần non hoa trái mùa sau. Có bao nhiêu dư âm xưa trong đêm dài chờ sáng? Có bao nhiêu cuộc chia ly trong giọt lệ trùng phùng? Dù biết rằng trái tim luôn đập theo từng nhịp của hôm nay cho sự sống, nhưng không hiểu sao dòng máu chúng ta đôi lúc luân lưu, tuần hoàn trong mỗi tế bào của quá khứ? Những ngày đầu của mỗi tháng Ba, phải chăng vẫn buồn và vẫn khoắc khoải trôi về:

 

... Phương trời mình đi xa thêm xa

Nghe vạn mùa thu sau lưng ta

Em ơi, em ơi! Thu thiết tha

Ơi người vì ta qua phong ba

Có còn gì sâu trong tâm tư

Mắt lệ mờ hoen dư âm xưa... (2)

 

– Nguyễn Vĩnh Long

Durham, North Carolina

 

(1) Lặng Lẽ Nơi Này –  Trịnh Công Sơn

(2) Tình Lỡ –  Thanh Bình

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.