Hôm nay,  

Những Cô Học Trò Và Đôi Điều Khó Nói

05/07/202400:00:00(Xem: 3478)

Trước giờ thi, một cô học trò láu táu, “Thầy bao nhiêu tuổi hả thày?” Câu hỏi từ cặp môi đỏ chót và cái nháy mắt từ cặp lông mi lướt thướt làm cả lớp cười ồ. Hồi ấy tôi vừa mới ba mươi, và tôi là ông thầy giáo bị hỏi câu ấy ngay trong lớp học, cái lớp học có quá nửa số học sinh là nữ, và tôi bị hỏi khi đang giúp học trò ôn bài thi cuối khóa.

Quá bất ngờ, ông thầy sựng lại một giây, rồi thong thả trả lời, “Cái này đâu có trong đề thi.”

“Em hỏi là tại vì hồi đêm em nằm chiêm bao thấy thày,” cặp môi cong chậm rãi giải thích. Cả lớp chăm chú lắng nghe. Cô học trò gật gù như chờ cho mọi người theo kịp rồi mới tiếp, “Vì vậy em cần biết tuổi thày để mua số đề.”

Lớp học vỡ toang tiếng cười. Cả lớp xúm vào hùa theo. Những cái miệng lao xao. “Thầy làm gì trong giấc mơ của chị Trang vậy, thày?”, Trang là cô học trò mi cong, môi đỏ ấy. “Đúng rồi, cho số để tụi em mua ké đi thầy.” “Thầy mấy tuổi rồi vậy, thầy?” “Nói thiệt đi thầy, thầy bao nhiêu tuổi…” “Cho số đi, nếu trúng em chia cho thày một nửa.” Học trò đùa giỡn muốn vỡ tung lớp học. Một người còn nhắc lại cái lần xe ông t thầy chết máy, phải nhờ học trò câu bình, và hứa, “Trúng số, em mua cho thầy chiếc xe Lexus, để thày khỏi lo mùa đông xe chết máy.”

Ông thầy lúng túng, cố gỡ rối, “Được rồi, được rồi… Bây giờ lo chuyện thi rồi sẽ tính sau.” Ngay lúc ấy thì nhân viên coi thi vào tới. Cơn đùa giỡn lắng vội xuống như thủy triều rút.

Và ông thầy thoát nạn.

Dạo ấy tôi dạy hai lớp vừa Anh ngữ cho người mới tới định cư, vừa Quốc Tịch. Một lớp đủ các sắc dân, lớp kia toàn người Việt. Hôm ấy là ngày thi của lớp người Việt. Gần ba chục học sinh đủ mọi lứa tuổi hồi hộp chờ nhận đề thi. Để giúp đỡ di dân yếu tiếng Anh, sở Di Trú đổi từ thi vấn đáp sang thi viết. Cuối khóa học, nhân viên di trú đem đề thi đến tận lớp học cho học sinh làm bài và cho biết kết quả ngay tại chỗ. Tôi nghĩ thi quốc tịch ở Canada là thứ thi cử dễ nhất thế giới. Hai mươi câu hỏi. Làm đúng sáu mươi phần trăm là đậu. Nghĩa là không được sai quá bốn câu. Khóa học có sáu buổi. Buổi học đầu, đích thân thày giáo làm hồ sơ và nhận tiền học phí để nộp cho sở Giáo Dục. Lệ phí mỗi khóa học là mười đồng tiền Nữ Hoàng. Công việc đơn giản. Chỉ cần thủ sẵn một ít tiền lẻ để thối lại cho học sinh. Sau sáu buổi của khoá học ấy, thày giáo biết mặt, biết tên tất cả học sinh, nhớ đến cả giọng nói và cách nói chuyện của từng người.

Trừ một người.

Ấy là một cô học trò không bao giờ mở miệng. Liên tiếp sáu tuần lễ, và nếu kể tới hôm ấy thì đã là bảy, chưa bao giờ cô hé môi nói ra một lời. Những móng tay không sơn phết, khuôn mặt không trang điểm hoặc trang điểm rất khéo khiến ông thày không thể nhận ra. Nụ cười buồn và mắt nhìn xa vắng. Chỉ bấy nhiêu thôi. Ngay cả những lúc lớp học xôn xao đùa giỡn, cô cũng vẫn nhìn xa xăm. Tia nhìn xuyên qua ông thày, xuyên qua tấm bảng đen, xuyên qua vách tường trắng, luồn qua những cành phong xanh lá trong sân trường, lượn cùng những đám mây mùa hạ trên cao, và tan biến vào một nơi xa, rất xa, tới nửa vòng trái đất. Chắc đây là một thiếu nữ có tâm sự buồn. Một người xác nơi này nhưng hồn còn lay lắt ở quê nhà. Ông thày đoán vậy và để mặc cho cô học trò xa vắng.

Người ngồi bên cạnh cô học trò xa vắng ấy - tức là cô học trò mi cong, môi đỏ, hay đùa nghịch nhất lớp - khi học về các cấp chính quyền Canada, đã than thở, “Thày, mắc mớ chi mà Canada nhiều đảng quá trời, em nhớ hỏng nổi.”

Ông thầy liếc cô gái thầm lặng một cái rồi nhìn qua người vừa đặt câu hỏi, chậm rãi cái giọng trầm trầm, “Có năm đảng liên bang, ba đảng ở tỉnh bang, đâu có nhiều.”

Cô môi đỏ, mi cong không đồng ý, “Phải như chỉ có một đảng như Việt Nam mình thì khỏe há, thầy?”

Cả lớp rộn tiếng cười. Ông thầy cũng buồn cười và không thể không đồng ý rằng nhiều đảng thì dân chủ thật nhưng khó nhớ tên chủ tịch đảng – vì xứ đa văn hóa nên chẳng những có tên tiếng Anh, tiếng Pháp, mà còn cả tên tiếng Hòa Lan, tiếng Ấn Độ - thêm vào đó là phải nhớ đường lối của từng đảng một. Trước khi quay lại với bảng đen ông thày liếc cô gái thầm lặng thêm một lần. Trên khuôn mặt trái soan ấy, vẫn một nửa nụ cười u uẩn và hai con mắt ngó xa xăm.

Buổi học cuối. Thi Quốc tịch, một thứ thi tốt nghiệp sau khóa học. Không khí nghiêm trọng hẳn lên. Có quốc tịch là yên tâm. Trở thành công dân một xứ sở văn minh và tôn trọng nhân quyền là điều mọi người mơ ước. Nhân viên di trú đến coi thi, chấm bài và trao cho ông thầy bản kết quả thi.

Bà nhân viên nhà nước vừa quay lưng, học trò nhốn nháo ngay lập tức. Bao nhiêu con mắt lo lắng nhìn thày. Nhìn kết quả, ông thầy thở phào và bằng giọng nói thảnh thơi, cho biết cả lớp mình đậu hết. Học trò hét lên và nhào đến mừng rỡ ôm ông thầy. Thầy loay hoay, lúng túng, tay chân rụng rời, thân người mềm nhũn. Những đụng chạm hiếm có giữa những người Việt Nam khác phái đang ập lên người ông thầy. Mùi tóc, mùi mồ hôi, mùi nước hoa, mùi da thịt, mùi dầu gió xanh và cả mùi thuốc lá làm ông thầy choáng cả người. Lúc tìm được một khoảng trống để thở ông thầy bắt gặp bóng dáng cô học trò thầm lặng. Vẫn tóc thả xuôi vai, mắt nhìn xa xăm và nét buồn u uất. Ông thày chợt nhận ra tất cả học trò đều ôm thầy một cái để chung vui, ngoại trừ cô học trò trầm lặng này dù cô cũng thi đậu như mọi người. Lòng thầy giáo chợt nao nao. Trí óc vẽ vời thấp thoáng một chuyện tình đơn phương tội nghiệp. Hôm nay là ngày cuối nếu học trò không nói ra, sẽ chả bao giờ còn cơ hội cho học trò nói nữa đâu. Ông thầy thầm nghĩ.


“Thi đậu rồi, uýnh lộn với chồng có sao hông thầy?” Giữa tiếng cười nói lao xao, giọng cô học trò mi cong, môi đỏ lanh lảnh.

“Không nên,” thầy giáo nói vội. “Chưa tuyên thệ quốc tịch, chưa là công dân, nguy hiểm lắm. Tội hình sự, coi chừng bị trục xuất…”

“Lỡ mình hỏng muốn mà thằng chả cứ kiếm chuyện thì phải làm sao, hả thầy?”

Tiếng cười rộn ràng lớp học. Cô – hay bà - học trò này là người son phấn đặm nét nhất lớp học và cũng là người khi học về địa lý, nhìn vào bản đồ đã cằn nhằn với đầy ẩn ý, “Bản đồ phẳng lì thế này làm sao biết chỗ nào là núi đồi, chỗ nào là sông rạch để mà mò chớ!”

Nhưng cũng nhờ những câu nói đùa như thế mà lớp học bớt khô khan.

Vậy là xong một khóa học. Vài tuần nữa sẽ có lễ tuyên thệ. Ông thầy nhìn một lượt những khuôn mặt Việt Nam thân thuộc. Những di dân này sẽ có cho mình một tấm thẻ quốc tịch và những quyền lợi công dân của một đất nước tự do đúng nghĩa. Sau những lời cảm ơn, những cái bắt tay thân tình, những vòng ôm hiếm hoi, mọi người lũ lượt ra về. Cơn vui lắng xuống như thủy triều rút cạn. Cô học trò còn lại đó. Cô nhìn thầy giáo bằng đôi mắt u uẩn, như có điều gì không thể nói ra nhưng cũng không thể giấu mãi trong lòng.

Bước xuống chỗ cô ngồi, thầy giáo ngần ngừ gợi ý, “Thi đậu rồi mừng há?”

Cô học trò nhỏ nhẹ, “Dạ.” Ấy là câu nói đầu tiên thốt ra từ cặp môi mỏng màu hồng. Suốt bảy tuần lễ đây là lần đầu tiên ông thầy nghe được giọng nói của cô học trò.

“Cô có hỏi gì không?” ông thày nhắc nhắc.

Cô học trò lại “Dạ” rồi ngừng một lúc mới nói tiếp, “Thầy, bữa trước lúc mới nhập học đó...” Cô lại ngần ngừ. Cô học trò bối rối. Ông thầy cũng bối rối theo. Trong lòng xốn xang, ông thầy chuẩn bị thật kỹ để nghe một câu tỏ tình. Nhất định phải là câu tỏ tình. Cứ nhìn ánh mắt thì biết. Từ hồi nhận dạy lớp quốc tịch đã hai lần ông thầy được (hay bị) học trò tỏ tình. Một cô học trò từ Iraq chờ mọi người về hết mới lên bảng viết một hàng chữ Ả Rập lẫn một câu tiếng Anh. Thầy giáo chỉ đọc được câu tiếng Anh vì nó đơn giản: “I love you, Teacher.” Lần khác là cô học trò xứ Nam Tư cũ. Cũng I love you, nhưng thay vì ghi “Teacher” thì ghi tên của ông thầy. Lần ấy ông thầy đã hoảng hốt nhắc học trò ra về cho nhanh. Còn lại một mình, đứng ngẩn ngơ nhìn nét phấn trắng ngoằn ngoèo trên nền bảng đen, lòng bâng khuâng như cơn gió lạc vào lớp học, không tìm được lối ra.

Vì vậy hôm nay ông thầy đoán được câu cô học trò sắp nói. Chắc cô sẽ nói bằng tiếng Việt. Lâu lắm không nghe được câu tỏ tình bằng tiếng Việt. Nhưng vì là thiếu nữ Việt Nam chắc cô sẽ không nói thẳng ra điều cô đang ôm ấp trong lòng. Có thể cô sẽ xa xôi, bóng gió, nói xa nói gần, nói bằng ánh mắt, nói bằng nụ cười, nói bằng cái mím môi, nói bằng đôi mi rung rất nhẹ… để làm lòng ông thầy mềm xuống như sợi bún (bún tươi ở Việt Nam chứ không phải bún khô cứng như kẽm gai, nhập cảng từ Thái Lan hay Hồng Kông bán đầy rẫy ở phố Tàu Toronto!) Học trò tỏ tình thế nào thày giáo cũng chịu hết. Bao nhiêu năm lận đận xứ người, tình yêu hiếm hoi, còn lòng nào mà bắt bẻ những chuyện nhỏ nhen. Em có quyền cải lương. Cỡ nào thày cũng chịu. Miễn sao câu nói ấy diễn tả trọn vẹn những điều em gói ghém trong lòng suốt bảy tuần lễ nay là được.

Nghĩ vậy nhưng ông thầy vẫn cố nhớ xem mình có giảng sai chỗ nào không, chẳng hạn nhớ lầm tên ông chủ tịch đảng cầm quyền thành bà chủ tịch đảng đối lập, nhưng ông thày biết chắc là mình không sai chỗ nào hết. Thế nên ông thầy khuyến khích cô học trò, “Có gì muốn hỏi phải không? Thi đậu rồi, thành công dân Canada rồi vui há. Bây giờ khỏi lo quên tên dòng sông dài nhất Canada hoặc tên ông chủ tịch đảng cầm quyền nữa nhỉ.”

“Thày mau quên quá hà!” cô học trò trách móc với nụ cười. Rồi cả hai cùng im lặng. Mãi cô mới nói được một câu, thật nhỏ, như một lời thì thầm phát ra từ một góc kẹt nào đó của trái tim đang lỡ nhịp, “Bữa hôm nhập học...”

“Nhập học... làm sao?” ông thầy nôn nóng.

Cô học trò chớp mắt, nhìn xuống nền nhà, rên rỉ, “Ui da, sao khó nói quá hà!”

“Thì cứ nói, thầy y không la đâu,” ông thày giáo khuyến khích.

“Bữa hôm mới nhập học đó, lúc đóng tiền học phí đó, em đưa thầy tờ hai chục...”

“Rồi sao nữa?”

Cô gái thở hắt ra, “Thầy quên thối lại em mười đồng.”

Ông thầy giật bắn người. Chuyện ấy có hay không, lâu rồi làm sao mà ông thày nhớ được. Nhưng cô học trò nhớ lâu vậy chắc là đúng. Khổ một điều là hôm ấy thầy giáo không đem theo tiền nên không có mười đồng để trả cho cô học trò.

Lớp học ấy và bao nhiêu lớp học khác đã qua. Ấy là một thời tôi đã đong đếm được vô số kỷ niệm đẹp. Những lớp học ở xứ người đầy ắp học trò Việt Nam đủ mọi lứa tuổi nhưng vẫn giữ tình thày trò thắm thiết, và dẫu chỉ là lớp học ESL và Quốc Tịch nhưng cũng đã cho tôi sống lại một thời ca dao xưa, rất xưa (dẫu đã ít nhiều lạc điệu) rằng “muốn con hay chữ thì yêu lấy thày”. Chỉ tiếc là cho tới bây giờ tôi vẫn thiếu nợ cô học trò trầm lặng mười đồng tiền Canada. Dù những khóa học sau đó tôi luôn thủ mười đồng trong túi chờ cô ghé qua để nhận lại, nhưng cô biến đi như cánh chim lao vào cơn bão.

Và thỉnh thoảng tôi lại băn khoăn không biết mình đã làm chuyện gì trong giấc chiêm bao của cô học trò mi cong, môi đỏ, người đã đòi tôi khai tuổi và than phiền rằng bản đồ Canada phẳng lì, nhìn không biết đâu là núi non, sông rạch để mò cho chính xác.
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.