Hôm nay,  

Bùi Mai Hạnh, Người Hát

19/03/202516:02:00(Xem: 2591)
Nguoi Hat
Người Hát là tập thơ đầu tiên của Bùi Mai Hạnh. Một tập thơ đặc sắc. Một trong những chủ đề là những quan tâm xã hội được nhìn dưới khía cạnh trữ tình, sự bình đẳng, tự do, và các mối quan hệ giữa người và người. 


Cảm nhận nhiều ánh sáng. Nhắm mắt lại và bạn nhìn thấy ánh sáng xuyên qua hiện hữu của mình, qua mọi hiện hữu. Bạn chấp nhận đời sống, những niềm vui và những nghịch cảnh của nó. Bạn thừa nhận sự yếu đuối của bạn. Bạn nhìn thấy sự nguy hiểm, sự không an toàn của đời sống. Bạn nhìn thấy sự chọn lựa của mình, buông bỏ và bắt đầu, tin vào sự chọn lựa ấy, sống với nó, và bạn được tưởng thưởng. Và giờ đây bạn ca ngợi sự chọn lựa ấy.

tôi yêu tôi lại từ đầu

tôi cởi tôi khỏi nút đau giả vờ

 

tôi ăn nằm với tự do

thiếu thừa trần truồng đen đỏ một tôi

 

tôi uống một tôi sương rơi

nhau êm bụng mẹ ma chơi bụng trời

Người Hát là tập thơ đầu tiên của Bùi Mai Hạnh. Một tập thơ đặc sắc. Một trong những chủ đề là những quan tâm xã hội được nhìn dưới khía cạnh trữ tình, sự bình đẳng, tự do, và các mối quan hệ giữa người và người. Thơ chị không trừu tượng, không có những ý tưởng tổng quát, mà chứa đầy sự kiện, các chi tiết. Có một truyền thống văn hóa và tinh thần ở đó, trong những bài thơ có tính hiện đại và đương đại của chị. Thơ Bùi Mai Hạnh trực tiếp mô tả, trong khi hàm chứa những yếu tố triết lý lặng lẽ. Mối quan hệ của chị với người khác, trong tình bạn, trong tình yêu, là những mối quan hệ sâu đậm, mạnh, khó khăn. Tất cả các đề tài đều có thể có mặt: sự chống trả quyết liệt đối với số phận, sự đề kháng xã hội, sự sợ hãi và hèn yếu, tất cả có mặt trong thơ Hạnh.

nói bất kỳ khi nào ta muốn

nói đến khi đứt hơi khản tiếng

nói đến khi chọc thủng tai trời

nói đến khi đập vỡ tim người

 

đến khi người đi đường dừng lại lắng nghe

lắng nghe không suy diễn, phán xét, bỏ tù

Thơ ấy rền vang những đớn đau.

Và dũng cảm. Chị chuyển giọng điệu từ châm biếm, hài hước, thành thân mật, thuyết phục. Chị là một trong những nhà thơ nữ hiếm hoi chọn một giọng điệu không có tính thương cảm. Một người phụ nữ có bi kịch nhưng không để mình rơi xuống cảm xúc bi lụy. Bùi Mai Hạnh là giọng nói nữ quyền, từ phương Đông. Dù chị lập gia đình và định cư ở Úc. Một tiếng nói văn hóa trong thơ, sự đòi hỏi bình đẳng nhưng đó là một đòi hỏi tự nhiên, không nặng lý thuyết. Cũng có những bài thơ rất gần với văn xuôi, tựa như lời kể. Những bài thơ xuất sắc chọn con đường khác: chúng đi từ sự hiểu biết đến sự không hiểu biết. Nếu một điều gì tạo ra chú ý ở người đọc, sự thích thú của họ, thì điều ấy phải có khả năng mở ra những lớp ý nghĩa khác nhau và tạo ra những bất ngờ trong diễn dịch. Đối với một bài thơ như vậy, người đọc có thể trở lại nhiều lần, mỗi lần một lý thú mới, vì đó là phát hiện mới, cái sướng mới và sự đau khổ mới.

ta không cần ai nói hộ mình

không cần nhân danh ai để nói

 

nói đến khi hiểu nhau

nói đến khi yêu nhau trở lại

Thơ Bùi Mai Hạnh là thơ đương đại, ngôn ngữ của chị là ngôn ngữ của chúng ta và của phụ nữ hôm nay. Những bài thơ ấy không cần chờ thời gian để xác định giá trị. Giá trị của chúng được xác lập ngay lập tức. Sự náo loạn, hỗn độn, là khởi đầu của mọi sự, nhân sinh, vũ trụ, động vật và thực vật, trời và đất, đàn bà và đàn ông và chuyển giới và đồng tính và nhị trùng bản ngã. Chúng ta thức dậy mỗi ngày chỉ để nhìn thấy các giá trị bị đảo lộn, hết các khái niệm về gia đình bị thách thức, lại đến tương lai trở nên bất định. Thơ Hạnh chạm được điều ấy. Mặc dù chị không hoàn toàn đứng tách ra khỏi các nhà thơ cùng thời, chưa vượt ra khỏi họ hoàn toàn, chị thử sức và tôi tin rằng chị đã làm được trong những bài thơ xuất sắc nhất. Hoang dại:

tối trong lòng ý nghĩ yêu ma

nhốt vào đêm chật nêm cuồng vọng

ngày khép mắt nhặt tia ký ức

ai là người biết tự ru mình?

 

nghe trái tim rỗng hoác

nôn nao điều gì?

mơ hồ vọng tiếng thú hoang chín ngả

ngả nào không chạm cõi âm?

Có sự thách thức trí tuệ không che giấu, tình cảm bồi hồi nhẫn nại, chiều sâu của cảm xúc, sự hồn hậu, kết hợp ở Bùi Mai Hạnh. Một điều gì ở giữa thế giới chúng ta và thế giới tưởng tượng, đó là hình ảnh. Hình ảnh là nơi mà các sự kiện xảy ra, các nhân vật gặp gỡ, yêu nhau, ly biệt, và do đó có một mối liên hệ, tuy khó nhìn thấy nhưng bao giờ cũng tồn tại, giữa hình ảnh và cái đẹp.

thức dậy sau cơn ác mộng
tôi thấy mình ngồi một mình
không xa lắm nơi tôi đang sống
tôi thực hành bài thiền

Tình trạng thân mật. Thân mật là gì? Là khoảng cách ở giữa chúng ta; công việc tạo ra khoảng cách bởi một nhà thơ ít được nhận ra nhưng đó là một quyết định thẩm mỹ, vì nó điều chỉnh cách nhìn và cách nghĩ của người đọc. Thơ chị là ý thức về cộng đồng: chị có một cái nhìn đối với sự mong manh của các bảng giá trị, sự nghi ngờ đối với người khác và sự nghi ngờ đối với chính mình. Bên cạnh một ngôn ngữ có khi quá trực tiếp và mộc mạc, những hình ảnh chưa hoàn toàn thuyết phục, thơ chị là tiếng nói của tự do và sự tìm kiếm nó, tiếng nói của sự hiểu biết và không hiểu biết, tính xác định và tính bất định. Bùi Mai Hạnh không quan tâm lắm đến các huyền thoại bí ẩn. Đó là sự phơi mở táo tợn, tiếng nói đề kháng cao đối với các truyền thống trấn áp. Lời của nạn nhân:

Hết rồi ư vội vã thanh tân

Hồn chưa kịp đâm cành kết trái

Xác đã nếm muôn vàn khổ ải

Thơ như thế là cũ hay là mới? Chữ của chị không mới, lối đặt câu không mới, sự hợp vần khá cổ điển, thế nhưng cách nói ấy là rất mới. Thơ ấy là một thứ thơ nhân chứng, ghi chép lại đời sống hôm nay, hoan lạc và đau đớn, những vùi dập phũ phàng và những hy vọng nhỏ bé.

Mùa yêu trốn chồng ra ngõ

Em chờ một thoáng hư vong

Tôi đọc đi đọc lại bài thơ Đáy mộng, để hiểu thêm về chị, những khổ ải của một người phụ nữ. Tôi không biết gì về đời sống riêng của chị, nhưng tôi tin rằng thơ chị là những khổ đau đã được hóa thân:

Con tàu hối hả nghiến xuống đường ray tóe máu

Em cũng hối hả đi đỡ đẻ cho đàn bướm mới sinh

Thơ mở ra những cảm xúc và những ý nghĩa siêu hình học trong hoàn cảnh văn hóa của người đọc. Để làm được như vậy, bài thơ cần có một  cân bằng của các xung đột, vừa là sự mất cân bằng của chúng. Năng lượng của bài thơ sinh ra từ sự mất cân bằng. Chị chống lại lý tưởng hóa, chống lại sự kết thúc có hậu. Một bài thơ của Bùi Mai Hạnh có thể tan ra và vô nghĩa, chị tháo tung các cấu trúc và trong khi làm cho một số bài thơ của chị mất đi động lực ban đầu, rơi lả tả, thì một số bài khác lại vượt lên, chạm đích, thể hiện chiều kích cảm xúc mà người viết đã trải qua.

Nổi loạn

Vượt ngục

Phạm tội

Xin đấng tối cao một cơn điên

Một lần phản bội

Hãy thành thật lúc này

Thơ chị phát hiện và để lại những vệt máu trên tường, những giọt lệ đã khô trong tay áo người phụ nữ. Thơ ấy cô độc, buồn rầu, phẫn nộ, nhưng lay động chúng ta. Đọc thơ Bùi Mai Hạnh cần phải đọc lại, đọc lại lần nữa, và bạn sẽ tìm thấy ở đó một điều gì tựa như tia sáng, tựa như dấu vết của thời gian, của tình thương ấm lạnh, lời tự bạch trong đêm. Thơ chị trong sáng nhưng không dễ hiểu, không phải vì ngôn ngữ của chị khó hiểu, mà vì chị tiếp cận rất lạ đối với đời sống, và thứ cọ xát ấy kỳ lạ thay mang lại cảm hứng thơ ca, mà tôi tin rằng ít gặp hôm nay. Thơ hay cần sự kiểm soát, cần sự dâng hiến, nghệ thuật là một điều gì ở giữa tính thiêng liêng và thân xác trần tục, sự thật là một điều gì ở ngoài các diễn ngôn. Thơ Bùi Mai Hạnh có những bài thành công, làm lóe sáng các va chạm ấy của niềm tin và các ảo tưởng, âm mưu và ngây thơ, giả dối và sự thật. Ở chị, sau tất cả những tao phùng đau đớn, sự tra vấn ác liệt, những xấu xa tàn tệ của nhân gian, vẫn là lòng tin cuối cùng vào con người.

hạnh phúc nhỏ nhoi đến từ bóng tối hỗn mang, nỗi đau chôn kín của anh và em, của bố mẹ tổ tiên...

niềm vui giản đơn bên bếp lửa gia đình, thắp lên từ triệu triệu kiếp trước,

bữa tối, và những câu chuyện cổ, khép lại một ngày ngọt ngào thấm mệt,

bay vào giấc mơ chúng mình, lời ca dao buồn vui mưa nắng tái sinh...

này anh,

chẳng nơi đâu ấm bằng nhà mình

Thơ Bùi Mai Hạnh có lẽ chưa được nhiều người biết, có lẽ chị ít phổ biến, hay vì một lý do nào khác mà tôi không rõ. Tập thơ của chị có nhiều bài cần được chú ý, mỗi bài một khía cạnh riêng. Bùi Mai Hạnh còn là một người viết văn xuôi, vì vậy ngôn ngữ của chị sắc bén; sự mô tả giàu có. Tình yêu mãnh liệt:

Anh, em muốn làm cho tất cả đàn ông trên thế gian này đêm nay mệt

Nhoài, ngủ vùi

Trong ngọt ngào hạnh phúc

Trong ngày mai thức dậy

Không còn sợ hãi

Tôi nghĩ đó là những câu thơ tuyệt hay, bừng bừng hoan lạc, gởi gắm sâu xa. Thơ Hạnh thường bị đẩy đến cực đoan, trước cánh cửa khóa chặt. Có những bóng tối mà chị không tìm cách chiếu sáng, có những cánh cửa mà chị không muốn mở. Chị muốn chúng ta dừng lại trước n ó, chiêm nghiệm về nó. Thơ không phải là các giải pháp mà là những dấu hỏi. Tôi cũng thích những câu mộc mạc này:

anh và em cùng bạn bè ào đến,

bạt ngàn ruộng nho vàng, nâu, xanh, đỏ

bừng lên lộng lẫy ráng chiều

quả mùa trước đã thu hoạch hết

những cây nho nghỉ ngơi chờ sinh quả mùa sau

Thơ Bùi Mai Hạnh có chất thời sự, như khi chị viết về người tử tù, viết về một chung cư bị cháy, những sự kiện khác. Chị nhẫn nha trò chuyện với các sự vật nhỏ bé, các đồ vật, chim chóc, thú vật. Chị yêu thiên nhiên nh ư một cõi tâm linh, và sống hạnh phúc trong thiên nhiên, bây giờ. Đó là một người hạnh phúc, với đầy đủ ý thức. Bùi Mai Hạnh sống ở nước ngoài, làm thơ bằng tiếng Việt, thuộc về thế hệ những người phụ nữ lấy quê hương thứ hai làm nơi chốn, cũng như Quỳnh Iris de Prelle, Dạ Thảo Phương, thực sự có một cuộc đời ở đó, đầy đủ ý nghĩa, nhưng khi viết, họ trở về với tiếng Việt, không phải như một cuộc hồi hương hay hoài niệm, mà sử dụng ngôn ngữ ấy như một cách nghĩ, cách sống. Đó là những người Việt có hai đời sống, và Bùi Mai Hạnh yêu cả hai, một cách khác nhau, một bên dịu dàng tử tế, một bên bạo liệt xót thương, cả hai đều trong tim yêu dấu.

Tôi yêu tôi lại từ đầu

Tôi cởi tôi khỏi nút đau giả vờ

Tôi ăn nằm với tự do

Thiếu thừa trần truồng đen đỏ một tôi

Có một bạo liệt gần như liều lĩnh trong thơ Bùi Mai Hạnh. Đó là sự dũng cảm tự nhiên, nguyên thủy, hoang dã, vì vậy mà thật. Tôi nghiệm thấy những người có tính cách ấy thường hài hước. Những kẻ sợ hãi không bao giờ vượt qua các ngưỡng cửa và chỉ lẩn quẩn trong vòng vây của kiến thức. Sự hiểu biết, sự quen thuộc làm bạn thanh thản, nhưng sẽ làm bạn thụ động trước đời sống. Chỉ những người nào vượt qua tình trạng điều kiện hóa mới có thể thách thức sự ràng buộc đối với cá nhân, với tình yêu. Đó là sức mạnh của cái không biết. Thơ Bùi Mai Hạnh đầy những cái không biết, tức là những thăm dò, xô cửa, dự báo. Thơ chị còn mới lắm, và chị sẽ còn thay đổi. Chị sống một cuộc đời nén lại, mỗi giây phút là sự tập trung của hiện hữu. Thơ Hạnh sinh ra từ những giây phút như thế. Tôi xin chúc mừng chị và các bạn yêu thơ.

Nguyễn Đức Tùng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.