THÀNH PHỐ SÀI GÒN
Thành phố Sài Gòn, có diện tích 2.960 km vuông. Dân số năm 2011 là 7.521.100 người, mật độ 3589 người/ km vuông. Với sắc dân: Kinh, Hoa, Chàm, Miên. Thành phố Sài Gòn có 19 quận: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Tân Bình, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Thủ Đức, Gò Vấp, Bình Tân, Tân Phú; và 5 huyện: Nhà Bè, Cần Giờ, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh. Thành phố Sài Gòn ở toạ độ: 10 độ 10'-10 độ 38' Bắc và106 độ 22'-106 độ 54' Đông.
Thành phố Sài Gòn phía bắc giáp tỉnh Bình Dương, tây bắc giáp tỉnh Tây Ninh, tây giáp tỉnh Long An, nam giáp tỉnh Tiền Giang, đông nam giáp biển Đông (dài 15 km), và đông giáp Đồng Nai. Sài Gòn có nhiệt độ trung bình là 27 độ C.
Giao thông: Sài gòn cách Hà Nội 1.730 km (đường bộ).
- Đường bộ của Thành phố Sài gòn có 6 bến xe khách liên tỉnh được phân bố ở các cửa ngõ ra vào: Miền Đông, Miền Tây, Văn Thánh, Chợ Lớn, Ký Thủ Ôn, Tân Bình-Tây Ninh.
- Đường sắt của thành phố Sài Gòn gồm các tuyến nội ô và khu vực phụ cận. Trong thành phố có hai nhà ga chính: Sóng Thần và Sài Gòn. Bên cạnh đó còn có một số nhà ga nhỏ: Thủ Đức, Dĩ An, Gò Vấp, Bình Triệu. Đáng tiếc hệ thống đường sắt không được nối trực tiếp với các cảng, và tuyến đường cũ kỹ nên giao thông đường sắt không phát triển.
- Đường hàng không, thành phố Sài Gòn có sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất là phi trường lớn nhất Việt Nam.
- Đường thuỷ của thành phố Sài Gòn có 4 cảng biển chính: Sài Gòn, Bến Nghé, Nhà Bè, Tân Cảng. Và các cảng sông: Bình Đông, Tân Thuận, Bình Lợi, Bình Phước...Ngoài ra, còn có khoảng 50 bến đò phục vụ giao thông cho hành khách. Cảng Sài Gòn là một trong những cảng lớn nhất Việt Nam. Việc chuyển tiếp giữa giao thông đường bộ, đường biển và đường sông còn có nhiều khó khăn, hầu hết các cảng đường sông, do thiết bị yếu kém, vẫn phải bốc dỡ bằng thủ công.
Giao thông trong nội ô TP Sài Gòn, do tốc độ tăng dân số nhanh, quy hoạch yếu, hệ thống đường xá chật hẹp, khiến thành phố luôn phải đối mặt với vấn đề ùn tắc. TP Sài Gòn có trên 200 cây cầu, nhưng phần lớn chiều rộng của cầu nhỏ hơn chiều rộng của đường, nên gây khó khăn phương tiện giao thông. Không những thế, một số các cây cầu có trọng tải yếu ở trong tình trạng xuống cấp. Tại các huyện ngoại thành, hệ thống đường phần lớn vẫn còn là đường đất đá, còn các con đường trải nhựa thì cũng đang bị hư hỏng, cần sửa chữa. Hệ thống xe buýt (bus) và xe taxi, số cung chưa đủ đáp ứng cho số cầu của hành khách tại thành phố.
Hệ thống sông ngòi thành phố Sài Gòn: Thành phố Sài Gòn ở vùng hạ lưu sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Sài Gòn có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất đa dạng. Sông Sài Gòn đoạn chảy vào thành phố, có độ sâu khoảng 20m và rộng khoảng 200m đến 400m. Sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, hợp lưu với những sông khác, có lưu lượng mạnh, sông Đồng Nai có chiều dài khoảng 200 km, riêng đoạn sông dọc theo thành phố là 80 km. Một con sông nữa của thành phố Sài Gòn là sông Nhà Bè, được hình thành ở nơi hợp lưu hai sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy ra biển Đông bởi hai ngả chính Soài Rạp và Gành Rái. Riêng ngả Gành Rái chính là đường thủy chính cho tàu ra vào bến cảng Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, thành phố Sài Gòn còn có hệ thống kênh rạch chằng chịt: Bến Nghé, Bến Cát, Láng The, Bàu Nông, Rạch Tra, An Hạ, Kênh Tẻ, Kênh Đôi, Tham Lương, Cầu Bông, Lò Gốm... Hệ thống sông, kênh rạch đã giúp thành phố trong việc dùng nước và thải nước. Do chịu ảnh hưởng của biển Đông, thuỷ triều thâm nhập sâu, đã gây nên những tác động khó khăn về việc trồng trọt và hạn chế việc thoát nước ở một số khu vực trong thành phố.
Môi trường sinh sống thành phố Sài Gòn: Dân số Sài Gòn tăng quá nhanh, sự phát triển của thành phố theo nhịp độ tăng trưởng yếu kém; ý thức trách nhiệm một số người dân lại thờ ơ, thiếu bảo vệ môi trường chung... Do đấy, thành phố đang đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường trầm trọng. Nước thải từ dân chúng, cơ sở sản xuất và cơ sở y tế (bệnh viện)..., đã và đang cho chảy trực tiếp vào sông ngòi?!!!
Lượng rác thải ở Thành phố Sài Gòn cũng rất bừa bãi!
Tình trạng ngập lụt nơi trung tâm thành phố đang ở mức báo động, do hệ thống cống thoát nước được xây cách đây 50 năm, đã xuống cấp!
Hệ thống Giáo dục ở thành phố Sài Gòn: Năm 2009, thành phố Sài Gòn có trên 1.000 cơ sở giáo dục; trong đấy có các trường công lập và bán công, còn lại là các cơ sở dân lập, tư thục. Thành phố còn có các trường ngoại ngữ, không chỉ giảng dạy những ngôn ngữ phổ biến, mà còn có 1 trường dạy Hán Nôm và 4 trường dạy Việt ngữ cho người ngoại quốc. Ngoài ra, thành phố Sài Gòn hiện có khoảng 40 trường nước ngoài do các lãnh sự quán điều khiển.
Trường đại học ở TP Sài Gòn có nhiều nhất nước, gồm các trường: Trường đại học Sài Gòn, Trường Đại học Y khoa, Đại học Kiến trúc, Đại học Y Dược, Đại học Ngân hàng, Đại học Luật, Đại học Kinh tế... đều là các đại học quan trọng của Việt Nam. Sinh viên đang theo học tại các trường đại học, có khoảng 40% là sinh viên từ các tỉnh khác ở trong nước, đến tạm trú tại thành phố Sài Gòn để học Đại học.
Lịch sử thành phố Sài Gòn: Sài Gòn thành lập đến nay hơn 300 năm, năm 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh (xem tr. 368), chúa đã Nguyễn cử ông thành lập phủ Gia Định, xứ Đồng Nai, lập huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (lập dinh Phiên Trấn).
Năm 1859, Pháp đánh chiếm Nam kỳ, thành Gia Định thất thủ. Năm 1862, cảng Sài Gòn được thành lập, tàu buôn Tây phương và Châu Á, tấp nập lui tới. Ngày 15-3-1874, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh lập TP Sài Gòn. Sài Gòn trở thành đô thị, và bắt đầu kiến trúc trung tâm thương mại, các công sở, đường sá... theo kiểu Tây phương. Đầu thế kỷ 20 Chợ Lớn sát nhập vào thành phố Sài Gòn, Sài Gòn trở thành đô thị lớn nhất Đông Dương.
Ngày 26-10-1956 Sài Gòn được dùng làm thủ đô của Việt Nam Cộng Hoà.
Năm 1975, Sài Gòn thất thủ, năm sau (1976) bị đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh.
(còn tiếp)
Nguyễn Lộc Yên
Thành phố Sài Gòn, có diện tích 2.960 km vuông. Dân số năm 2011 là 7.521.100 người, mật độ 3589 người/ km vuông. Với sắc dân: Kinh, Hoa, Chàm, Miên. Thành phố Sài Gòn có 19 quận: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Tân Bình, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Thủ Đức, Gò Vấp, Bình Tân, Tân Phú; và 5 huyện: Nhà Bè, Cần Giờ, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh. Thành phố Sài Gòn ở toạ độ: 10 độ 10'-10 độ 38' Bắc và106 độ 22'-106 độ 54' Đông.
Thành phố Sài Gòn phía bắc giáp tỉnh Bình Dương, tây bắc giáp tỉnh Tây Ninh, tây giáp tỉnh Long An, nam giáp tỉnh Tiền Giang, đông nam giáp biển Đông (dài 15 km), và đông giáp Đồng Nai. Sài Gòn có nhiệt độ trung bình là 27 độ C.
Giao thông: Sài gòn cách Hà Nội 1.730 km (đường bộ).
- Đường bộ của Thành phố Sài gòn có 6 bến xe khách liên tỉnh được phân bố ở các cửa ngõ ra vào: Miền Đông, Miền Tây, Văn Thánh, Chợ Lớn, Ký Thủ Ôn, Tân Bình-Tây Ninh.
- Đường sắt của thành phố Sài Gòn gồm các tuyến nội ô và khu vực phụ cận. Trong thành phố có hai nhà ga chính: Sóng Thần và Sài Gòn. Bên cạnh đó còn có một số nhà ga nhỏ: Thủ Đức, Dĩ An, Gò Vấp, Bình Triệu. Đáng tiếc hệ thống đường sắt không được nối trực tiếp với các cảng, và tuyến đường cũ kỹ nên giao thông đường sắt không phát triển.
- Đường hàng không, thành phố Sài Gòn có sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất là phi trường lớn nhất Việt Nam.
- Đường thuỷ của thành phố Sài Gòn có 4 cảng biển chính: Sài Gòn, Bến Nghé, Nhà Bè, Tân Cảng. Và các cảng sông: Bình Đông, Tân Thuận, Bình Lợi, Bình Phước...Ngoài ra, còn có khoảng 50 bến đò phục vụ giao thông cho hành khách. Cảng Sài Gòn là một trong những cảng lớn nhất Việt Nam. Việc chuyển tiếp giữa giao thông đường bộ, đường biển và đường sông còn có nhiều khó khăn, hầu hết các cảng đường sông, do thiết bị yếu kém, vẫn phải bốc dỡ bằng thủ công.
Giao thông trong nội ô TP Sài Gòn, do tốc độ tăng dân số nhanh, quy hoạch yếu, hệ thống đường xá chật hẹp, khiến thành phố luôn phải đối mặt với vấn đề ùn tắc. TP Sài Gòn có trên 200 cây cầu, nhưng phần lớn chiều rộng của cầu nhỏ hơn chiều rộng của đường, nên gây khó khăn phương tiện giao thông. Không những thế, một số các cây cầu có trọng tải yếu ở trong tình trạng xuống cấp. Tại các huyện ngoại thành, hệ thống đường phần lớn vẫn còn là đường đất đá, còn các con đường trải nhựa thì cũng đang bị hư hỏng, cần sửa chữa. Hệ thống xe buýt (bus) và xe taxi, số cung chưa đủ đáp ứng cho số cầu của hành khách tại thành phố.
Hệ thống sông ngòi thành phố Sài Gòn: Thành phố Sài Gòn ở vùng hạ lưu sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Sài Gòn có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất đa dạng. Sông Sài Gòn đoạn chảy vào thành phố, có độ sâu khoảng 20m và rộng khoảng 200m đến 400m. Sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, hợp lưu với những sông khác, có lưu lượng mạnh, sông Đồng Nai có chiều dài khoảng 200 km, riêng đoạn sông dọc theo thành phố là 80 km. Một con sông nữa của thành phố Sài Gòn là sông Nhà Bè, được hình thành ở nơi hợp lưu hai sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy ra biển Đông bởi hai ngả chính Soài Rạp và Gành Rái. Riêng ngả Gành Rái chính là đường thủy chính cho tàu ra vào bến cảng Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, thành phố Sài Gòn còn có hệ thống kênh rạch chằng chịt: Bến Nghé, Bến Cát, Láng The, Bàu Nông, Rạch Tra, An Hạ, Kênh Tẻ, Kênh Đôi, Tham Lương, Cầu Bông, Lò Gốm... Hệ thống sông, kênh rạch đã giúp thành phố trong việc dùng nước và thải nước. Do chịu ảnh hưởng của biển Đông, thuỷ triều thâm nhập sâu, đã gây nên những tác động khó khăn về việc trồng trọt và hạn chế việc thoát nước ở một số khu vực trong thành phố.
Môi trường sinh sống thành phố Sài Gòn: Dân số Sài Gòn tăng quá nhanh, sự phát triển của thành phố theo nhịp độ tăng trưởng yếu kém; ý thức trách nhiệm một số người dân lại thờ ơ, thiếu bảo vệ môi trường chung... Do đấy, thành phố đang đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường trầm trọng. Nước thải từ dân chúng, cơ sở sản xuất và cơ sở y tế (bệnh viện)..., đã và đang cho chảy trực tiếp vào sông ngòi?!!!
Lượng rác thải ở Thành phố Sài Gòn cũng rất bừa bãi!
Tình trạng ngập lụt nơi trung tâm thành phố đang ở mức báo động, do hệ thống cống thoát nước được xây cách đây 50 năm, đã xuống cấp!
Hệ thống Giáo dục ở thành phố Sài Gòn: Năm 2009, thành phố Sài Gòn có trên 1.000 cơ sở giáo dục; trong đấy có các trường công lập và bán công, còn lại là các cơ sở dân lập, tư thục. Thành phố còn có các trường ngoại ngữ, không chỉ giảng dạy những ngôn ngữ phổ biến, mà còn có 1 trường dạy Hán Nôm và 4 trường dạy Việt ngữ cho người ngoại quốc. Ngoài ra, thành phố Sài Gòn hiện có khoảng 40 trường nước ngoài do các lãnh sự quán điều khiển.
Trường đại học ở TP Sài Gòn có nhiều nhất nước, gồm các trường: Trường đại học Sài Gòn, Trường Đại học Y khoa, Đại học Kiến trúc, Đại học Y Dược, Đại học Ngân hàng, Đại học Luật, Đại học Kinh tế... đều là các đại học quan trọng của Việt Nam. Sinh viên đang theo học tại các trường đại học, có khoảng 40% là sinh viên từ các tỉnh khác ở trong nước, đến tạm trú tại thành phố Sài Gòn để học Đại học.
Lịch sử thành phố Sài Gòn: Sài Gòn thành lập đến nay hơn 300 năm, năm 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh (xem tr. 368), chúa đã Nguyễn cử ông thành lập phủ Gia Định, xứ Đồng Nai, lập huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (lập dinh Phiên Trấn).
Năm 1859, Pháp đánh chiếm Nam kỳ, thành Gia Định thất thủ. Năm 1862, cảng Sài Gòn được thành lập, tàu buôn Tây phương và Châu Á, tấp nập lui tới. Ngày 15-3-1874, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh lập TP Sài Gòn. Sài Gòn trở thành đô thị, và bắt đầu kiến trúc trung tâm thương mại, các công sở, đường sá... theo kiểu Tây phương. Đầu thế kỷ 20 Chợ Lớn sát nhập vào thành phố Sài Gòn, Sài Gòn trở thành đô thị lớn nhất Đông Dương.
Ngày 26-10-1956 Sài Gòn được dùng làm thủ đô của Việt Nam Cộng Hoà.
Năm 1975, Sài Gòn thất thủ, năm sau (1976) bị đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh.
(còn tiếp)
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn