Thơ Khai Bút

24/01/202500:00:00(Xem: 2481)
 
Duy Thanh
Minh họa: Duy Thanh
 
1.
Hãy yêu tôi
Mặt đất nói
Hãy yêu tôi
Một ngày tôi nghe tiếng nói
Khi tình cờ đi ngang qua mặt đất
 
2.
Im lặng
Như căn nhà
Nơi kẻ hiếp dâm vừa rời bỏ
 
3.
Nếu tôi có một nửa tự do của bạn
Tôi sẽ về nhà
 
Làm cái cây đứng trong sân trổ hoa
Hay tốt hơn là, khúc gỗ dưới mưa xuân.
 
4.
Mang một ấm trà
Đi qua hai năm
Nước réo sôi
 
5.
Khi nào hết chiến tranh
Tôi sẽ đi dọc sông Ba Lòng
 
Tới dưới chân núi Đakrong
Để đón mẹ tôi về
 
6.
Sau cuộc tử hình
Người mẹ mang con về nhà
Không phải đứa con trai đã chết
Chôn vùi huyệt mộ đêm qua
 
Người mẹ mang con về nhà
Như mang vầng trăng qua cửa sổ
Cái chết chiếu khắp căn phòng
Lạnh lẽo, sáng như trăng
 
7.
Có một khoảnh khắc
Bàn tay giữ anh lại
 
Giữ thật chặt
Như một dấu phẩy
 
Giữ một câu
Anh không ngoái lại
 
Chỉ thấy bóng em trên mặt nước
Trước khi anh được nhấc lên
 
8.
Chỉ bằng cách lắng nghe
Anh nghe tiếng nước xoáy
Nơi sáu dòng sông giao nhau
Bến Lục đầu
 
Chỉ bằng cách lắng nghe
Anh nghe tiếng chân em bước trong mưa
Nhưng khi anh ra mở cửa
Chỉ có chùm chìa khóa treo giữa trời
 
9.
Một người ca sĩ
Chết trong trận đánh
Xương hàm mở há ra
 
Cô vẫn còn hát
Khi viên đạn bay qua
Sâu dưới mặt đất
 
10.
Cho nhân dân tôi, thức dậy trong bóng tối, những người hát bài ca im lặng, những người than thở trong im lặng, những người nổi giận trong im lặng, những người yêu nhau trong im lặng, lời cầu
 
Nguyện cho nhân dân tôi, những người đi trên đường, chạy tất bật từ sáng đến tối, cho bữa ăn của người nghèo đói, hít thở khói và bụi, những người già trước tuổi, những người không bao giờ biết hát, những người không bao giờ biết cười, những người không bao giờ biết nói dối
 
Cho người đàn bà bị hãm hiếp, cho căn nhà đầy bóng tối, cho kẻ bị ruồng bỏ, cho những tội ác chưa bao giờ bị gọi tên, cho đêm xuống, cho mái tóc phủ đầy sương của người bán dạo tiếng rao khuya, vỉa hè, cho những mùa hè nóng rẫy mồ hôi, tiếng sấu rơi, con chó con đi lạc
 
Cho máu người phụ nữ, chảy giữa hai đùi, cho ca khúc phản đối chiến tranh, cho những người đi ngàn dặm đòi lại đất, cho kẻ mất nhà mất cửa đi giữa những lâu đài dinh thự, cho những chữ cái bị mờ đi trong ký ức, cho cuộc phân ly trên đường bay dân tộc
 
Cho một nhân dân chưa biết khóc, cho những cuộc hôn phối dịu dàng, những hạnh phúc muộn màng của người lính cũ, cho áo lính bạc màu, nhạc bolero, người mù chơi đàn, lời tiên tri giả dối, tiếng chuông đổ vô hồi trên mặt nước
 
Cho nhân dân như người góa phụ đi thêm bước nữa, cho cánh cửa nở trắng hoa ti-gôn, ngã ba đường đến trễ không gặp người thương, những nhà văn hì hục viết trang văn lừa dối, cho gió lùa cánh cửa, những nắm tay không hề biết đấm xuống mặt bàn, cho tung tóe lên những trò lừa đảo, tình yêu hư ảo như khách lạ, những kẻ sơ tán đời mình vào chăn gối, ván bài nhân loại lật ngửa
 
Cho kẻ ngây ngất vì hòa bình, tưởng rằng mọi tội lỗi kết thúc, chúng ta yêu lí tưởng mà sao khốn khổ, đi qua gần hết cuộc đời trong sạch lại nhỡ để thua khánh kiệt một lần như rừng lửa cháy, cho kẻ lạc đường trở về tìm những tâm hồn đọng lại suối khe, cho những đêm trăng tự vượt lên chính mình, những bồ câu nay trở thành ác điểu, cho chớp bể gặp lại mưa nguồn, cho pháp trường
 
Ván bài dân tộc xoay nghiêng, kẻ bạc đầu về ngủ lại trên hiên nhà, nhìn mây trắng đuổi nhau như hoa lay mộng dữ, như những chữ bị cắt làm đôi, như cấp số nhân của những nhầm lẫn, sao lòng ta không chịu hót, đêm ngạt ngào hương mộc, bàn chân em thơm mùi lúa, anh phải đâu chỉ ngắm sao trời, còn ngắm một cánh thư rơi
 
Xuống, từ lòng chia hai dạo đó, trong bão táp trở về, chén trà thơm nâng ngang mặt, hoa sen hồng long lanh mặt nước, cho số phận quỷ quái chưa đi hết một con đường đã hóa rồ hóa dại, các bạn yêu mến của tôi hãy dừng lại, mặt trời lên mỗi ngày, cầm tay giữ cành cho anh hái một nhành trái chua xen trái ngọt
 
Đêm bạc đầu về ngủ dưới trăng sao, nghe cu gáy trong vườn mít, nghe tiếng em rửa bát sau nhà ngang, hoa cải vàng tháng chạp, quê mình còn nghèo lắm nhưng má hồng đã thắm, đời hư ảo mặn nồng như rượu mới cất, gió reo xiết bên ngoài nhưng mùa bên trong đã chín, bầy ong dẫn thơ về
 
Tiếng trẻ khóc oe oe trong xóm cũ, cho những chữ trên trang vở học trò, hẩm hiu sáng dưới ngọn đèn, cho một giọt lệ cũng chia đôi, cho thánh thần cũng bưng mặt, trước đám cưới muộn của đôi ta, cho cánh chim sa ngoài bãi cát, cho một nhân dân đã khánh kiệt lòng tin, nay trở lại, cho những kẻ đa tình về nhận lỗi, được tha thứ, cho vòng ngọc đi tìm cánh tay, để những cách trở thôi mồ côi dặm đường thăm thẳm, cuộc ly hương dồn xuống vai ta như áo quần nặng trĩu trên dây phơi quần áo, cho gió mới, trăng lên, mặt trời bớt gay gắt, cho người đi xa lắc nhớ về nhau
 
Tình yêu có bao giờ dễ dàng đâu, cầm tay em nhìn đường gân xanh nổi, biết mình đi xa quá lâu
 
Cho nhân dân tôi, người ôm lấy nhau, xóm làng vui trở lại, cho mùa xuân về, những hoa văn trên chuông chùa sáng lại, cho những tượng Phật trăm tay nghìn mắt chưa nhìn thấy cuộc đời nay nhìn thấy tình yêu và tội lỗi, cho thơ và đời, cho lục bát bay vào ca dao, cho hồn bách thảo về giữa kinh đô, cho dân tộc cưu mang những tâm hồn lưu lạc, cho mùa hạn xé nát cánh rừng những mái nhà lợp chưa xong, cho chiến tranh dập nát linh hồn, cho màu máu sâu thăm thẳm trên ngực người sống sót, cho kẻ chống chọi cám dỗ, cho vàng ngọc có người gìn giữ, cho ngọn đèn khuya hiu hắt
 
Chiếu sáng giường người đàn bà đau bụng đẻ, cho bom đạn đã hết mà hơi cay còn ngột ngạt, cho những người thiếu nữ thôn làng mắt đong đưa, cho những kẻ khất mãi nợ với cuộc đời, chưa trả hết, mà trời đã chiều, cho chiếc võng anh giăng ra trong hoàng hôn, có người trở về nằm nghe bụi hoa lài thơm lừng, cho tuyết nơi xứ lạ cũng chia phần với anh một nửa, cho cuộc éo le của đời anh, cho má đỏ môi son, những lời vu vơ bên rào bông giấy, người im lặng quay đi, ngực phập phồng như mùa thu cũ, cho những kẻ ôm hoa vào lòng
 
Mà dâng lên nỗi buồn, cho cuộc lữ hành, cho nhành cây run lên trong mùa hạn, bao khát vọng của người đi trước, cho cổ tích xa vời trở lại, lá ngô đồng rụng xuống hòn bi của tuổi thơ, cho cá trong ao giật mình khi em đi qua, cho thánh đường rách nát tiếng chuông lọc hồn ta sáng lạn, những hươu nai ngơ ngác trở về bên suối, như hôm nay anh trở về với em, nhưng anh có điều muốn hỏi.
 
Nguyễn Đức Tùng
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thiên Lý Độc Hành, là tựa một tập thơ của Thầy, và cũng là bốn chữ được viết treo trên hương án của Thầy tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, nơi Thầy ở vào những năm tháng cuối đời. Thiên lý độc hành, hình ảnh biểu trưng nhất về Thầy Tuệ Sỹ, muôn dặm cô lữ dằng dặc nỗi ưu tư phận nhà vận nước…Và, khó làm sao để tường tận cái chấp chới của vạt áo tỳ khưu đẫm ánh trăng đêm, thấp thoáng ẩn hiện Người và cõi thơ tịnh tĩnh. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở/ Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan... Hỏi, tại sao, vì đâu, lòng muối kiên định... để bất khuất chưa tan?
Tháng tư nắng quái trên tàng lá / Ngày nóng rang, khô khốc tiếng người / Nước mắt ướt đầm trên mắt mẹ / Nghìn đêm ai khóc nỗi đầy vơi? / Tháng tư em dắt con ra biển / Hướng về nam theo sóng nổi trôi / Thôi cũng đành, xuôi triều nước lớn / Làm sao biết được, trôi về đâu?
Dù đứng bên bờ vực của tận diệt, con người vẫn có thể cứu chuộc chính mình bằng ngôn từ và ký ức, đó là tinh thần của giải Nobel Văn Chương năm nay. Trong ánh sáng của niềm tin, Việt Báo đăng lại bài thơ “Hãy để nước Mỹ lại là nước Mỹ” của Langston Hughes – một khúc ca vừa đau đớn vừa thiết tha, viết gần một thế kỷ trước, mà như viết cho thời đại ngày nay. Giấc mơ Hughes gọi tên lại vang lên – giấc mơ về một xứ sở nơi lời hứa của nước Mỹ là hơi thở chung của những người cùng dựng lại niềm tin vào công lý, vào tự do, vào chính con người.
Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nhất là trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, nếu cho là chủ quan, tôi vẫn nói rằng, Khí thơ của Nguyễn Xuân Thiệp là khí thu. Trăng ở thơ đó là trăng thu. Gió ở thơ đó mang cái hắt hiu thu. Không biết tại sao, chỉ thấy Khi đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp tôi lại liên tưởng đến cảm xúc của Trương Trào trong U Mộng Ảnh xưa: “Thơ và văn được như cái khí mùa thu thì là hay.”. Nguyễn Xuân Thiệp, xuất hiện lần đầu tiên trên dòng thơ của văn học miền Nam Việt Nam vào năm 1954 trên Thẩm Mỹ Tuần Báo với bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu. Bài thơ tính đến lúc này là 71 năm -tiếng thở dài một đời người-, hôm nay tôi đọc lại, cảm xúc vẫn bị lay động bởi hình ảnh u buồn của lịch sử vào thời gian xa xăm đó.
Nguyên Yên, một trong những nhà thơ đương đại nổi tiếng ở hải ngoại. Cô chưa in một tập thơ nào, chỉ xuất hiện trên một số trang web như Việt Báo, Văn Việt, Hợp Lưu, Blog Trần thị Nguyệt Mai, Phố Văn… Ngoài những bài viết về thời sự, bình luận ký tên thật Nina Hòa Bình Lê với cái nhìn sắc bén và nhân ái, người đọc còn được biết đến Thơ của cô, với bút danh Nguyên Yên. Một tiếng thơ gây ngạc nhiên bởi ý tưởng, hình ảnh độc đáo, giản dị, mạnh mẽ, trữ tình. Tôi thực sự bị dòng thơ này lôi cuốn.
Theo đại thi hào R.Tagore "Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong". Theo tác giả cổ đại Ovid (khoảng năm 43 trước Công Nguyên) thì: “Có ít nhiều sự thoải mái trong cơn khóc”. Thi sĩ Colley khẳng định: “Lời nói để khóc và nước mắt để nói” Thi sĩ người Pháp Alfred de Musset có câu thơ: “Cái duy nhất còn lại cho tôi ở trên đời/ Chính là những lúc đã đôi lần nhỏ lệ”. Thi sĩ người Anh Robert Herrick: “Giọt lệ chính là ngôn ngữ cao quý của đôi mắt” .Nhà thơ trẻ Nepal, Santosh Kalwar tâm sự: Tôi đã mỉm cười ngày hôm qua. Tôi đang mỉm cười ngày hôm nay và khi ngày mai đến, tôi sẽ mỉm cười. Vì đơn giản, cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ – Và ai đó đã cho rằng: Không có gì đẹp hơn một nụ cười đã trải qua những giọt nước mắt.
Trong tập Bốn Mùa Trời và Đất, Márai Sándor cảm giác về mùa hè, …Tôi đứng trên ban công, giữa một vùng xanh, nghe tiếng rì rào thức dậy của cây cỏ. Mùa hè đây rồi, tôi nghĩ; và nó giống như một cảm xúc tràn ngập trong tôi, không khoan nhượng, và đầy những kỷ niệm giản dị… (Giáp Văn Chung dịch) Trong tản văn Hoa Nở Vì Ai, Vũ Hoàng Thư viết, …Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm… Và mùa hè trong truyện của Đặng Thơ Thơ, … Đó là lúc chín nhất của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm...Ở Cảnh Nhàn của Bạch Vân Cư Sĩ có thú sống, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…, có lẽ thời của người, nước còn trong ao còn sạch.
Bạn đang nghe thấy gì trong khí hậu tháng Tư? / Tiếng kêu từ đáy huyệt cuối trời. / Tiếng gió xoáy những cột cờ tử thương tuẫn tiết. / Tiếng phố vỡ triệu mảnh thủy tinh cắt lồng ngực tháng tư rỉ máu mãi chưa khô. / Tiếng sóng hôi dao mùi hải tặc từ oan nghiệt một thời biển huyết. / Tiếng oan hồn dật dờ tìm về cố quận, đáy vực kia bầy cá hoang tảo mộ. / Tiếng hậu chấn từ tâm hồn con dân tháng Tư choàng lên thảng thốt. Dấu chàm xanh lưu xứ để nhận ra nhau. / Tiếng con bướm gáy trong giấc ngủ đôi bờ chiến tuyến. / Tiếng vô vọng của dòng thơ đớn đau, sỉ nhục trải dài trên đất đai tổ quốc. /Tiếng mong mỏi trên những dòng thơ đang vuốt mắt lịch sử, xin hãy chết yên, chết quên, và mở lòng ra ôm những vết thương, trồng lại bóng Quê Nhà…
“Chìm trong biển chết trôi tim người / Còn gì đâu tiếc thương xa xôi …” Chiếc tàu nhỏ rời bến Constantine, Algeria, chở Enrico Macias đến một nơi xa lạ, người lưu vong không bao giờ được phép trở về. Làm sao cánh chim di có thể quên lối cũ? Chiến tranh xua đuổi ông ra khỏi quê nhà. Tàu khởi hành không một người đưa tiễn. “Người tình ơi, ta xa nhau. Mượn đôi mắt em lên đường.” Với cây guitar làm hành trang, ông ghi lại, “J'ai quitté mon pays …”
Hãy tạm để những chuyện buồn nằm im dưới mâm cỗ ngày Tết, để ta chỉ được thấy màu xanh lá bánh chưng, màu đỏ ối ruột dưa hấu, màu vàng đỏ tung xòe trong những bao lì xì nhỏ, màu nắng chín nhấp nháy trên những trái quất… bây nhiêu đó có đủ để bạn đón hơi thở mới của đất trời? Hy vọng vậy để chúng ta được mọc lên như cỏ non trên khung rêu ngày tháng cũ. Bài thơ của Nguyễn Hồng Kiên tôi đọc được từ trang của trường Mầm Non Cự Khối, bài thơ được dạy cho các em lứa 4 tuổi, như một lời chúc tết hồn nhiên.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.