Hôm nay,  

Trong Lòng Cách Mạng

29/09/202016:33:00(Xem: 5095)

blank


Nếu Võ Hoàng còn, ta có một nhà văn lớn.

Vũ Thư Hiên


Được Cao vác bó tre về tới ngã ba cây chôm thì trời cũng vừa đứng bóng. Anh cảm thấy như cái sống lưng như muốn gẫy cụp lại, một bên ngực đau nhói, đau từng nhịp theo mỗi bước chân. Từ đó tới cây cầu ván bắc ngang đường mương trước nhà đâu khoảng năm bẩy chục thước nhưng biết mình có rán cũng không nổi, Được Cao lầm bầm:

“Nghỉ đã, còn có chút xíu, gấp gáp gì.”

Được Cao nghiêng người hất bó tre xuống bờ cỏ xong chống nạnh nhìn chầm chập vào nó một cách ngao ngán. Buổi trưa trời u u mà vẫn nóng, anh thấy bực bội trong mình quá, nhưng không biết phải làm sao nên chỉ thở hắt một cái thật mạnh rồi chầm chậm ngồi xuống đất, lột tấm áo đang cột ngang lưng ra, tìm một chỗ sạch nhất lau mồ hôi mặt.

“Tự dưng buồn ngủ kỳ thiệt!”

Được Cao luồn tay vô cái đầu tóc sói vuốt nhè nhẹ, thấy nản quá. Chiều hôm qua con mẹ Năm Đàn tới nói hoài về cái chương trình làm lễ rồi rốt cuộc nhờ anh phụ trách việc làm cho mấy chục cái lồng đèn, lớn nhỏ đủ thứ cỡ. Điều mà Được Cao ghét nhất là cái giọng của con mẻ ngọt lịm mà nghe cho kỹ thì luôn luôn có vẻ hăm doạ, và mỗi chuyện được lặp lại ít ra cũng ba lần.

Nghe thì ghét, nhưng không nghe thì không được. Nghe rồi lại càng không được vì tối lại, Được Cao ngẫm nghĩ tới trường hợp của ông Phùng, trường hợp của thằng Cam, mỗi người mỗi chuyện xem ra không có gì quá đáng mà cũng phải đi Miệt Thứ năm sáu tháng nay chưa thấy ai về nên cũng hơi lo. Thành ra, cuối cùng. Được Cao cũng phải quyết định sáng thức sớm đi chặt tre.

“Kệ mẹ nó.”

Hồi sáng lúc Được Cao ngồi bờ mương mài cây dao yếm chưa kịp tới nước bùn thì đã thấy mẹ Năm Đàn đạp xe ghé lại. Thấy anh ngồi chồm hổm trên cầu ván, mẽ không tiện dắt xe qua nên đứng trên lề đường nói trỏ xuống:

“Tưởng thầy chưa thức, tui ghé qua kêu. Đi đôn đốc cho công việc tốt đẹp vậy mà. Tui lo quá.”

“Tui cũng lo tui mới phải dậy sớm chớ. Mà tui lo phải đi Miệt Thứ kìa,” Được Cao nói thầm và ngước nhìn mẹ Năm Đàn thay cho câu chào hỏi.

“Thiệt cả xóm này, đúng ra, nhi đồng cả xóm này chỉ cậy có mình thầy, thầy cũng rán cho. Có gì trục trặc, thầy cho tui hay liền nghe, tui giải quyết.”

“Giải quyết cái mả mẹ tui, ai mà dám trục trặc.” Được Cao cầm dao yếm thọc xuống mương, đưa qua đưa lại cho sạch rồi cười gượng:

“Chị Năm làm ơn lo giùm tui cái vụ giấy dán sơm sớm. Với lại bột khuấy hồ. Đưa trễ kẹt lắm. Còn có mấy ngày hà.”

“Rồi, để đó cho tui. Thế nào thì phòng thương nghiệp cũng đáp ứng được. Mà mình còn phải điều nghiên lại hệ thống phân phối. Chiều ngày mốt xong hết, tui ghé lại thầy, mình bàn.”

Mẹ Năm Đàn còn nói nhiều nữa nhưng Được Cao nhớ không hết. Khi con mẽ đi rồi, anh mới hay là ngồi thừ ra đó lâu lắm, mà dao thì mài chưa xong.

“Sáng sớm, gặp đàn bà ăn nói lộn xộn, thấy ghét quá. Phần điều nghiên, phần phân phối là phần của mẹ, tui can chi mà dính vô đó. Làm xong mấy chục cái lồng đèn trong hai ba ngày chắc dễ à, mệt bá thở chớ chơi sao.”

Rồi suốt buổi đốn tre, Được Cao cứ cảm thấy hậm hực trong mình. Anh nghĩ mà thấy thương cho mấy đứa nhỏ. Đương không có nơi có chỗ học hành đàng hoàng mà phải theo ba má ra ở ngoài này. Cả năm rồi, con Thành quên tuốt cách đọc cách viết. Thằng Công đáng lẽ năm nay học lớp một mà bây giờ suốt ngày ở ngoài nắng và chỉ biết lượm nhánh cây khô về nhà làm củi, rồi lại lật đá kiếm trùng cắn câu. Trưởng ấp nói năm tới sẽ có trường, Được Cao chỉ biết năm tới sẽ có trường. Mẹ Năm Đàn hội phụ nữ nói sẽ tổ chức nhi đồng thành một đội ngũ cho năm tới, đâu đó có nề nếp để việc giáo dục “tiến bộ ngay từ bước đầu,” Được Cao cũng chỉ biết có vậy.

Lâu nay, tụi nhỏ cũng phải đi họp liền liền, học hát chứ chưa học chữ. Có khi, vợ chồng Được Cao đi họp đằng ấp, tụi nhỏ đi họp nhà mẹ Năm, khuya mới về, rồi mệt, buồn ngủ, bực bội không ai còn muốn ăn khoai. Tụi nhỏ đen và ốm như cò ma…

Bây giờ Được Cao ngồi đây, buồn ngủ mà đâu có dám ngủ. Chút nữa về, phải qua nhà bà Phùng mượn cây mác vót, chiều nay chẻ cho hết bó tre, tối đốt đèn dầu mà chuốt. Được Cao thở thườn thượt, lại thấy cái ngực đau nhói lên.

“Dạy học cả chục năm mà mạnh như trâu, ra đây mới có một năm mà sanh đủ thứ bệnh.” Được Cao vòng hai tay quanh đầu gối, ngước nhìn trời và sẵn cái bực trong mình, anh bực luôn với cái bóng mát lỗ chỗ của cây chôm. Được Cao khạc mấy cái, phun nước miếng càu nhàu:

“Mẹ, mang tiếng cây chôm chôm mà chưa khi nào có trái, cao chòng ngòng mà lá lưa thưa."

Hình như thấy mình hơi kỳ, Được Cao lắc lư cái đầu rồi thủng thẳng ngồi dậy, lấy bộ đưa bó tre lên vai. “Về cho rồi.” 

Tới nhà, chưa kịp quăng bó tre đã nghe tiếng chị Được cằn nhằn đứa nào đó:

“Hỏi ba mầy. Tao đã dặn có đi họp về, người ta nói cái gì thì nói lại cho ba mày nghe, đừng có nói với tao.”

Được Cao nhăn mặt, hất mạnh bó tre, đưa tay quẹt mũi.

“Con mẹ này ra ngoài đây ở, mệt nhọc riết rồi sinh tật, nói chuyện với con cái, nói toàn mày tao. Kỳ!” 

Anh vỗ vỗ cánh cửa:

“Cái gì đó? Cái gì đó? Đứa nào, ra đây nói ba nghe coi.”

Thằng Công ra trước, kế đó là con Thành, nhưng hai đứa không đứa nào nói gì hết. Chị Được vừa đi từ trong ra, vừa nói:

“Tụi nó đi họp sáng nay, người ta dặn về nói lại với cha mẹ, mỗi đứa xin năm chục xu đóng tiền quà, năm chục xu đóng tiền lồng đèn, rồi lèm bèm với tui cả buổi, tui biểu chút nữa về nói lại với anh. Đó, anh tính sao với tụi nó thì tính đi, tui hết biết rồi.”

Được Cao nhìn con Thành, rồi nhìn thằng Công, thấy đứa nào cũng có vẻ khẩn trương. Anh muốn hét lên một tiếng thật to nhưng ngại tụi nhỏ sợ nên dằn xuống, quay nhìn ra ngoài.

“Trời ơi, phải chi tụi nó quên luôn là không có ngày tết Trung Thu, không có ngày lễ Nhi Đồng gì hết, tụi nó sẽ hồn nhiên hơn và mình cũng không phải nghĩ ngợi gì nhiều trong hoàn cảnh này. Xót xa quá mà không tránh được…”

Con mẹ Năm Đàn! Con mẹ này ghê thiệt! Tùy theo người mẽ nói một kiểu khác nhau, mà không ngượng miệng chút nào, nhất là không coi người ta ra gì hết. 

“Trưởng ấp lo phần liên hệ với xã ủy nhận quà và phân phối. Còn tui, phòng thương nghiệp sẽ cất vật liệu làm lồng đèn. Đúng thì chỉ có giấy thôi, tui xin thêm bột hồ. Phần làm sườn, tui nghĩ ngay đến thầy. Tui biết thầy làm được. Một năm có một lần, tụi em nhỏ mong mỏi quá. Mà mình không thể bỏ bê tụi nhỏ nó được, mấy ông trên huyện biết khó lòng lắm.” 

Được Cao nghĩ tới cái mặt chành bành của mẹ Năm Đàn thì nghiến chặt răng lại, thở nhè nhẹ.

Một chút, anh nhỏ giọng:

“Chừng nào người ta kêu góp tiền, ba cho hai đứa, mỗi đứa một đồng. Lần sau có gì thì về nói lại với ba, chớ nói với má, má rầy rán chịu, nghe chưa.”

Tụi nhỏ hí hửng lộ ra mặt. Thằng Công mở miệng định nói gì đó thì Được Cao cười cười nói hớt:

“Mà nhớ đem quà về chia cho ba má với nghe.”

Hai đứa vui hẳn và lòn cửa hông ra vườn. Chị Được bước tới cửa, thấy bó tre, quay lại hỏi chồng:

“Anh đốn tre làm thêm cái trái nhà phải không?”

Được Cao chưa kịp trả lời, chị nói luôn:

“Hồi nãy bà Năm Đàn có ghé, hỏi anh có nhà không, tui nói không. Bả đi liền. Mà làm gì tui thấy chiều qua anh ngồi ngoài đám khoai với bả vậy?”

“Thì đó! Sáng nay thức sớm, đi sớm, em còn ngủ nên không nói, hôm qua thì trong mình bực bực cũng không nói… Mẹ Năm Đàn tới biểu làm cho mấy chục cái lồng đèn, nói là năm nay đãi ngộ nhi đồng, nhà nước làm sẵn phân phát, mà ấp mình xa quá, phải tự làm cho kịp. Mẹ nó, rốt cuộc mình bịnh nghỉ một tuần, trúng mối này, chết tiêu.”

Chị Được há hốc miệng, nghe mà không nói gì hết. Chị nhìn cái vẻ khinh khỉnh của chồng, thấy buồn cho cả hai. Mấy tháng đầu tới ở đây, chị còn lạc quan nghĩ rằng dầu sao thì vợ chồng con cái đùm bọc với nhau, bất cứ ở đâu cũng thấy yên lòng. Rán chịu cực khổ lúc đầu, lần lần chắc khá lên được.

 Từ một căn chòi nửa mái nhận lãnh được, chị cật lực giúp chồng chấn chỉnh lại cuộc sống, với cái hy vọng tạo dựng lại một phần những thứ mà mình có được trước kia, cũng đủ rồi.

Vậy mà không biết từ lúc nào, chị quên tuốt luốt những câu đùa duyên dáng tạo niềm vui cho chồng con, chị cũng quên luôn những công việc nho nhỏ tạo niềm vui cho chính mình, dạy cho con Thành làm toán, dạy thằng Công đánh vần chẳng hạn. 

Mà chỉ mình chị vậy thôi sao, anh Được càng lúc càng lầm lì, đã ít nói còn sanh thêm gắt gỏng. Chuyện hôm qua tới giờ, phiền như vậy mà cũng không nói một tiếng. Chị thỏ thẻ:

“Đờm anh khạc cũng còn nhiều chỉ máu, sao không phân bó tre làm hai mà vác cho nhẹ. Phải chi anh kêu tui dậy, tui đi theo, tui vác tiếp.”

Lúc này, Được Cao đã nằm hẳn trên sạp tre. Nghe cái kiểu vợ nói, anh biết thế nào cũng đi tới chỗ vừa nói, vừa hỉ mũi. Được Cao ngán nhất là chuyện đó. “Mình đã rầu thúi ruột rồi, nghe đàn bà vừa kể chuyện không không ở đâu vừa khóc thút thít thì chịu sao nổi.” Anh hỏi trỏng:

“Hấp khoai chưa?”

“Mới bằm xong, chưa hấp.”

Biết chồng đánh trống lảng, chị Được tủi thân nấc nhẹ một tiếng. Được Cao quay mặt vô vách, ỡm ờ:

“Ăn khoai ngán thiệt chớ không phải chơi. Em ngán không?”

“Tui nói rồi cách đây cả năm còn hỏi.”

“Tại ăn khoai, anh lở cuống họng chớ đâu phải tại bịnh phổi. Sang năm, kinh đào xong, có nước trồng lúa, anh hết bịnh liền chớ gì. Sang năm… Lẹ mà.”

Chị Được hậm hực:

“Chuyện gì anh cũng nói chơi được hết.”

Rồi hai vợ chồng im lặng thật lâu. Buổi xế trưa ở vùng đất mới khai phá lặng lẽ và trống trải, sao lòng người hình như ai cũng thấy bị dìm xuống bằng chính cái trống trải đó, và cái lặng lẽ bên ngoài hòa với cái lặng lẽ trong người, nghe ra như một thứ ẩn uất, chất chứa toàn những chuyện không vừa ý.

Chị Được bỗng hỏi:

“Anh hứa cho tụi nhỏ tiền là cho thiệt hả? Mình còn có mấy đồng…”

“Ờ, ờ.” Được Cao quay ra. “Phải chi anh giải thích được cho tụi nhỏ nó hiểu thì anh đã làm. Đằng này, việc này, không phải chỉ là việc của tụi nhỏ không thôi, em phải hiểu. Thời buổi này, con nít hay người lớn cũng đều được coi như nhau, mà điều cái kiểu hơi khác một chút… Khi nào mình hết sống nổi thì mình biết, chớ con nó còn quá nhỏ, anh không muốn thấy tụi nó khổ sớm.”

Chị Được im lặng. Ở ngoài sân, chắc con Thanh bẻ nhánh cây sắp lại để làm củi, tiếng kêu răng rắc, nghe buồn quá. Thằng Công không biết đang làm gì mà có lẽ vừa ở xa xa vừa hát: “Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng…” Cái bài mà trước đó, ông Phùng vì cấm con hát nên phải đi Miệt Thứ.

Được Cao chợt gắt với vợ:

“Qua bà Phùng mượn cây mác vót, nói là hai ba bữa sẽ trả.”

Chị vợ xì nhẹ một tiếng rồi đi về phía sau. Chắc chị hơi lấy làm lạ về thái độ của chồng nhưng không thèm tìm hiểu. “Hồi ở ngoài thành, thất nghiệp, cũng đói cỡ này mà anh đâu có quạu cọ.” Chị nghĩ tới độ đường từ đây qua nhà bà Phùng hơi ngán.

Được Cao lại quay vô vách, lần này thì kéo áo dưới lưng lên đắp phần đầu lại, rán ngủ một chút. Chưa kịp nóng lưng, tiếng hát thằng Công văng vẳng đong đưa từ đàng xa: “Em là búp măng non, em lớn lên trong lòng cách mạng…” Chắc thằng nhỏ vừa nhẩy cò cò vừa hát, tiếng lớn tiếng nhỏ. Được Cao trở mình lầm bầm:

“Ờ, ờ. Lớn lên trong lòng cách mạng… Ở đây mà có mả đậu, tao gỡ hột, nấu nước cho hai đứa bay uống, ỉa chẩy hai ba ngày đơ cán cuốc, hết trung thu, hết nhi đồng. Mẹ, búp măng non… Ờ, ờ, trong lòng cách mạng…” 

Ngoài sân, vẫn còn tiếng con Thành bẻ cây răng rắc.


Trong Lòng Cách Mạng, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.