Hôm nay,  

Tháng Tư Về

28/04/202116:28:00(Xem: 4603)

Minh thuy Thanh noi


  Nhìn lịch giật mình, ngày tháng trôi nhanh quá, mới đó đã đến tháng tư đen. Từ khi bị dịch Vũ Hán tôi không được đi dự ngày buồn 30 tháng Tư năm 2020, năm nay với tình hình này chắc ban tổ chức cũng khó thực hiện. Dù vậy nhưng ký ức tôi sống dậy mãnh liệt những ngày tháng ấy ...


   Khắc Khoải       

Đến tháng tư đen nhắc nhở rồi 

Gương nhìn quá khứ trở về thôi

Ai đi tù ngục sâu rừng núi 

Kẻ trốn ghe thuyền đắm biển khơi

Tê tái chia tay buồn thấm cảnh 

Xót xa giã biệt khổ đeo người 

Bao nhiêu chuyện tủi sầu non nước 

Trăn trở đêm dài thả mộng trôi 

                   MTTN 


Còn nhớ năm 2019 ...Chị Phương Hoa và tôi đi xem cuốn phim “30 Tháng 4 Năm Đó Bác Ở Đâu” do đài Dân Sinh và hội IRC phối hợp tổ chức.

 

Phim tài liệu ghép lại với các hình ảnh sưu tầm từ những phút cuối tháng Tư năm 1975...Nhìn ngày cuối các anh lính vẫn ôm súng ở nhiều địa phương, chung sức chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, áo rách sờn vai, mặt mày hoang mang như chim lạc tổ... Cảnh chiếu tiếp những người tù lao động trong rừng núi, trong trại, thân hình tiều tuỵ, nét mặt buồn xo khắc khổ...Tiếng thuyết minh nhắc nhở về những vị anh hùng Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Nguyễn Văn Long, Hồ Ngọc Cẩn ... Không khí lắng đọng, hình như mọi người đang xúc động tâm tư, đang khóc với hình ảnh đau thương đất nước miền Nam ngày cuối 30 tháng 4 năm 1975.

 

Sau buổi chiếu phim, nhân chứng sống là Trung uý Lê Ngọc Danh, Tùy viên Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư lệnh Quân đoàn 4 vùng 4 Chiến thuật), người đã sát cánh bên tướng Nam, lên có đôi lời kể về những giờ phút cuối của vị Tướng anh dũng này. Ông kể trong nỗi xúc động nghẹn ngào...


  Chiều cuối tướng Nam đi vào Quân y viện thăm anh em thương phế binh, các anh em khóc nói “Thiếu Tướng đừng bỏ chúng tôi“.

Ông an ủi vỗ về:

- Tôi không bỏ, tôi ở lại với anh em ...

Trở về tư thất, ông thắp 3 nén hương trước bàn Phật, sau đó người Tùy viên nghe tiếng súng nổ..........


Để kết thúc buổi chiếu phim, người xướng ngôn viên nêu lên câu hỏi:

“30 tháng Tư ngày ấy bác, anh ở đâu? chị ở đâu?....

 

Ra về lòng tôi nặng trĩu… Bốn mấy năm trôi qua, cuộc sống đã thay đổi, nhưng những người dân miền Nam khó thể quên chuyện ngày ấy. Tiếng Trung uý Lê Ngọc Danh kể về vị anh hùng Nguyễn Khoa Nam vẫn vang trong đầu cho đến giờ phút này. Đêm trăn trở, tôi thức dậy tràn nghiên theo thi hoạ:

 

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam

 

Thiếu Tướng hiên ngang ở lại thành

Quân hoài quý mến lớp đàn anh

Giờ cùng ước nguyện còn thơm tiếng

Phút chót câu thề mãi sáng danh

Nước mất buồn đau tìm lối tử

Nhà lìa khổ nhục thoát đường sanh

Can trường súng nổ ngàn thu biệt

Họ Nguyễn Khoa Nam sử sách dành

Minh Thuý Thành Nội 


    Giờ phút cuối nghe đài thông báo năm nay (2021) buổi tưởng niệm sẽ tổ chức tại khu Century thuộc thành phố San Jose do Bác Sĩ Phạm Đức Vượng đảm trách. Tôi thấy lòng phấn khởi như máu chảy về nguồn, cùng tâm trạng của những kẻ lưu vong tìm về tổ ấm tưởng nhớ đến ngày Quốc Hận cho vơi bớt nỗi niềm buồn tủi.

***


Hôm nay ngày 25 tháng 4 năm 2021. Buổi sáng trời âm u không có nắng, mây đen từng vùng. Đến nơi đã thấy hàng cờ vàng nối dọc ngoài đường story. Các hội đoàn tề tựu chuẩn bị mọi thứ. Đúng 11 giờ buổi lễ bắt đầu, tôi thấy có sự hiện diện của Thị Trưởng thành phố Westminster Tạ Đức Trí và luật sư Nguyễn Quốc Lân từ Nam Cali lên tham dự. Chương trình bắt đầu buổi lễ chào Quốc Kỳ Mỹ, Việt Nam. Mỗi lần được hát bản Quốc Ca VN thì kỷ niệm ùa về những buổi sáng thứ hai trong sân trường, cả lớp được đứng hát trước cột cờ, ngày xưa hát với tâm trạng bình thản vô tư, bây giờ hát nhưng tim đập mạnh..., nửa vui vì được hát và nửa như se thắt con tim. Kế tiếp lễ dâng hương Tổ Quốc và Lễ tưởng niệm các vị anh hùng “Sinh vi Tướng, Tử vi Thần” đã tuẫn tiết trong những ngày mất nước. Đèn hương nghi ngút vinh danh các anh hùng vị quốc vong thân, đúng là “Anh Hùng tử, khí hùng bất tử”.

    

   Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng

  

   Bình Long trận đánh diễn oai hùng, 

   Quyết dẹp quân thù núp ẩn bưng.

   Nếm mật, bùn dơ cùng rắn rít, 

   Nằm gai muỗi độc với sâu rừng.

   Yên bề trở lại dân chào đón, 

   Vững bước quay lui vợ tủi mừng.

   Nước loạn, nhà tan thề tuẫn tiết,

   Anh hùng đáng phục Tướng Lê Hưng.

                         MTTN



Thiếu Tướng Phạm Văn Phú 


Tướng Phạm Phú gương đầu 

Uống liều thuốc tử mau 

Anh hùng lời hậu thế 

Dũng khí tiếng đời sau

Tỵ nạn ông tràn hận

Lưu vong bạn ngập sầu 

Bàn vong người tuẫn tiết

Tưởng niệm nỗi buồn đau

                MTTN



Chuẩn Tướng Trần Văn Hai


Chiến sự nguy nàn cảnh bỏ đi

Lời mời tổng thống chẳng ngờ nghi

Sư đoàn bảy bộ binh tư lệnh

Chuẩn Tướng Trần Hai vẫn đảm vì 


Ngày cuối tháng tư đất nước tan

Hai mươi viên thuốc quyết không hàng 

Đồng Tâm căn cứ nơi làm việc 

Cái chết uy nghi đã chuẩn dàn 

                 MTTN



Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ 


Tử thủ vùng Lai Khê phút cuối 

Anh Hùng chẳng sợ đuổi đoàn quân

Bữa cơm măng vịt tình thân

Là giờ phút cuối nghĩa ân trọn kề


Viên đạn súng Colt thề quyết giữ 

Can trường “Vị Quốc Tử Theo Thành”

Bởi đau đất nước tan tành

Xem thường cái chết sử sanh nhắc hoài


Quốc hận tháng Tư đài tưởng niệm 

Bàn di ảnh khói điểm làn hương

Lòng dân đau xót mến thương

Âm thầm giọt lệ kính tương ngày buồn 

                              MTTN 



         

        Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn 


   Tổ quốc mang ơn lịch sử bù 

   Anh Hùng Hồ Ngọc Cẩn bao thu

   Hăng say quyết tử gìn quân đội 

   Nhiệt huyết can trường giữ chiến khu 

   Ngạo nghễ hiên ngang khi nhốt ngục

   Oai nghi thách thức lúc giam tù 

   Bị đem xử bắn không nao núng 

   Điểm mặt la to bọn giặc thù 

                            MTTN


    Trung Tá Nguyễn Long Cảnh Sát


   Nhớ buổi đau lòng chuyện bảy lăm

   Tháng tư phút cuối phận con tằm 

   Anh hùng mạnh dạn nào lo hãi

   Tướng tá can trường khó dọa hăm

    Chẳng đợi quân thù hành đạn súng

    Đâu chờ bọn giặc xử dao găm

    Nguyễn Long Cảnh Sát không nao dạ

    Tuẫn tiết hiên ngang dáng thẳng nằm

                                   MTTN

           

   Nhìn di ảnh tôi thấy lạnh toàn thân khi nghe đọc tiểu sử các vị đã tìm cách chết hiên ngang quyết không đầu hàng quân giặc. Mọi người đứng yên chờ đến phiên mình để được thắp cây nhan với tất cả lòng thành kính xúc động. Đang lúc làm lễ trời đổ cơn mưa như nhỏ lệ dùm niềm đau của những người con xa xứ, lưu lạc khắp nơi đã về đây,  cùng chung tâm trạng của kẻ mất nước với nỗi buồn dấy động mạnh lên mỗi khi tháng tư về. 

Tiếp tục chương trình các vị đại diện trong guồng máy chính quyền, đại diện các đoàn thể lên có đôi lời .....về ngày 30 tháng Tư. 

Phần văn nghệ với những bài hùng ca như “Việt Nam Tôi Đâu” (Việt Khang), “Đáp Lời Sông Núi” (Trúc Hồ), “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” (Nguyễn Đức Quang) v...v...Đến bài hát “Tấm Thẻ Bài” (Huyền Anh) 


Sau cuộc chiến này còn chi không anh?

Còn chi không anh?

Hay chỉ còn lại tấm thẻ bài

Đang lạnh lùng trên tay em


Giọt máu nào là của Mẹ 

Niềm tin nào là của em 

Ôi trên tấm thẻ bài này

Tấm thẻ bài này, đã từng

Ấp ủ tất cả giấc mộng yêu đương


Mộng yêu đương không bao giờ đến 

Không bao giờ đến nữa vì anh

Không còn mang tấm thẻ bài 

Trở về bên em ....


Lời nhạc làm hồn tôi miên man hồi tưởng về quá khứ, hình ảnh những anh lính Việt Nam Cộng Hòa hiện rõ, những người lính Thương Phế Binh, những chiếc xe cứu thương chạy vào Quân Y Viện trong Mang Cá hàng ngày trên đường Đinh Bộ Lĩnh, những hình ảnh cô nhi quả phụ đội khăn tang đầy các phố, những thước phim tài liệu chiếu lính đi hành quân ngâm nửa người dưới nước băng rừng lội suối, hay những lúc hành quân trở về với tấm thân tàn ma dại... Tại sao đã có hiệp định Geneva 1954 chia đôi đất nước mà miền Bắc cứ muốn xâm lấn miền Nam? trong khi các anh lính chiến miền Nam chỉ đánh giặc để tự vệ, bảo vệ làng mạc thôn xóm, lo cho người dân an ổn sinh sống trong thanh bình...Càng nghĩ mắt tôi càng mờ dần thấm thía với bản nhạc “Tấm Thẻ Bài”.


Thương Người Chiến Sĩ VNCH


Cộng Hoà anh lính thuở xa xưa

Hình ảnh oai phong kể mấy vừa

Chiến tích quay về ngang ruộng rẫy 

Hành quân ngừng nghỉ dưới cây dừa

Chiều thu đã thắm tình chia sẻ 

Phố hạ chưa phai cảnh đón đưa 

Áo trận sờn vai đời gió bụi

Thương người đội nắng với dầm mưa 

                     MTTN


Buổi lễ kết thúc vào lúc 3 giờ chiều, bước ra xe lòng tôi nhẹ nhõm bớt phần nào sự buồn rầu, vì được gặp gỡ đồng hương, cùng ngồi lại với nhau dưới bóng cờ vàng, những tấm lòng cùng chung cảnh ngộ, cùng đau chung cho vận mệnh của đất nước, tuy không nói nhưng đã được chia sẻ thật nhiều bằng ánh mắt. Nơi đâu có dân tỵ nạn là nơi đó có ngọn Cờ Vàng, cờ chính nghĩa bay phất phới trong gió, cờ trong tim ấp ủ nỗi niềm hy vọng, và cũng sưởi ấm biết bao nhiêu cho những người con đã lưu lạc mất quê hương ...


Tháng Tư Tưởng Niệm 


Tháng Tư cúi mặt ngậm ngùi 

Bao nhiêu ký ức đẩy lùi đau thương

Tỏ lòng kính cẩn nén hương

Anh hùng khí tử nặng vương lòng người


Tháng Tư đã tắt nụ cười 

Bởi giặc miền Bắc lấn trời phương Nam

Hung tàn cướp bóc gian tham

Đọa đầy mọi chốn dân oan thảm sầu


Tháng Tư súng bắn vào đầu

Can trường các vị Tướng câu “tử thành”

Lê Hưng, Nguyên Vỹ quyết hành 

Khoa Nam, Ngọc Cẩn thanh danh bỏ mình


Tháng Tư Phạm Phú quyên sinh

Trần Văn Hai cũng chọn vinh quyết thề 

Nguyễn Long đã chết giờ kề 

Trầm ngâm nhớ lại quặn tê nỗi buồn 


Tháng Tư máu nóng dâng cuồng 

Tháng Tư khắc khoải lệ tuôn mắt mờ 

                    MTTN


Ngày Buồn 


Quốc hận tháng Tư nỗi nhục buồn 

Dù trời đổ lệ giọt mưa tuôn

Đồng môn hải ngoại lòng đau uất 

Bạn hữu lưu vong máu hận cuồng 

Tướng dũng khuôn dung, nào khuất phục 

Người hùng di ảnh, chẳng hàng buông

Bàn hương khói tỏa người thành kính 

Tỵ nạn Cờ Vàng giữ vững luôn

                         MTTN


Dù bệnh dịch vẫn chưa chấm dứt, mọi người đi dự đều mang khẩu trang, trời mưa gió lạnh nhưng tinh thần người Việt ở hải ngoại thật mạnh mẽ, ban tổ chức chung góp bàn tay chuẩn bị thời gian dài vất vả. Chúng tôi vô cùng biết ơn ban tổ chức của Bắc Cali. 

               

Minh Thúy (Thành Nội) 

Mùa Quốc Hận 2021


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.