Hôm nay,  

Chạy Về Phía Bình Yên

29/08/202108:58:00(Xem: 3675)


Buổi chiều mưa rây rây. Thành phố lạ. Nhà hàng có cái tên quen. Chúng tôi vào, náo nức gọi món ăn. Sau gần một tuần lễ rong ruổi núi đá chênh vênh, với thác nước tung bọt trắng, với mặt hồ biếc xanh, với vô vàn những con dốc cheo leo, chúng tôi về thành phố. Cả tuần lễ ăn toàn đồ Tây, hôm nay ai cũng thèm món Á châu.

Vừa ngồi vào ghế, âm thanh nhốn nháo đã kéo tôi ngước nhìn màn hình ti vi trước mặt. Khung cảnh quen thuộc từ ký ức nào đó bỗng dưng chói lòa. Lũ người chen chúc nhau bu quanh chiếc máy bay khổng lồ đang lăn bánh trên phi đạo. Mắt tôi dán lên màn hình. Ngực tôi thắt lại. Tôi không dám nhìn. Tôi nhắm mắt. Tôi cố không nghe. Nhưng hình ảnh và những âm thanh ấy vẫn còn. Thật rõ nét. Dù tôi chỉ tình cờ bắt gặp.

Rồi tôi mở mắt. Những hình ảnh trên màn hình nhòe đi. Tôi dụi mắt để nhìn cho rõ, và tôi nhận ra mắt tôi ướt mèm. Tôi xô ghế đứng bật dậy, chạy vội vào nhà vệ sinh. Nơi yên ổn cuối cùng. Tôi đứng đó, khóc một mình. Tôi khóc mùi như đứa con gái yêu thương hết lòng mà bị người yêu ruồng rẫy.

Tiếng cửa mở. Một người đàn ông vào nhà vệ sinh. Tôi giấu vội cơn xúc động. Tôi quay mặt vào vách tường. Tôi chờ. Nước mắt nước mũi tràn trề. Tôi không dám khịt mũi. Tôi sợ người ta nghe thấy. Tôi mặc cho nước mũi chạy tuột xuống cằm. Cảm giác nhột nhạt, ngứa ngáy bò lan trên mặt. Những hình ảnh chợt thấy trên ti vi hiện ra trên vách tường, ngay trước mắt tôi. Có một lần tôi đã thấy những người tôi quen, những người thân yêu của tôi cuống cuồng tháo chạy như thế.

Dùng nhà vệ sinh xong, gã đàn ông đứng mãi trước tấm gương soi. Tôi chờ bên trong cầu vệ sinh. Không có gì để làm. Tôi đứng đó. Tôi cố gắng xoá bỏ những hình ảnh vô tình trông thấy trên màn hình. Tôi bị nghe chưa đầy một phút nhưng giọng người phóng viên hằn rõ đến từng chữ trong óc tôi. Tôi không thích cái mạch lạc của những câu nói trong bài tường trình của anh ta. Tôi cũng đã cố không nghe nhưng tôi không thể làm gì hơn. Những câu tường trình gẫy gọn bằng thứ Anh ngữ tiêu chuẩn. Rõ ràng, rành mạch. Tôi không thể ở đó mà không nghe thấy. Phải như anh ta tường trình bằng thứ ngôn ngữ nào khác thì hay biết mấy. Như tiếng Ả Rập, tiếng Ma Rốc, tiếng Nga hay ngay cả tiếng Dari hoặc Pashto là ngôn ngữ của cái nơi người ta đang chen lấn xô đẩy nhau để cố bám vào càng chiếc máy bay quân sự khổng lồ kia.

Bỗng dưng tôi ghét tiếng Anh, thứ ngôn ngữ quốc tế mà không có nó thì sẽ phải xoay sở chật vật trong cái thế giới chật hẹp này. Tôi ghét đài truyền hình thành phố nỡ trình chiếu giây phút lịch sử bi thảm của một dân tộc ngay trước mắt tôi. Tôi cũng ghét anh chàng phóng viên nói tiếng Anh gẫy gọn, lưu loát. Tôi ghét tôi tại sao lại học tiếng Anh. Tôi ghét chủ nhà hàng khi không lại mở ngay cái đài truyền hình, lúc đài ấy đang truyền đi hình ảnh giây phút hấp hối của một đất nước mà cái bi thảm của thân phận những con người chạy trốn sự man rợ lại vô cùng quen thuộc và gần gũi với đất nước tôi.

Người đàn ông trong nhà vệ sinh đã mở cửa bước ra ngoài. Tôi biết rõ bởi tôi nghe tiếng cánh cửa đóng sập lại. Và tôi không kềm được nữa. Tôi khóc òa. Cơn ấm ức bị nén chặt trong lồng ngực bung ra. Tức tưởi. Trong đời đây là lần thứ nhì tôi khóc như đứa trẻ. Lần đầu tôi khóc khi lầm lũi bước theo sau quan tài của mẹ tôi.

Ngày Sài Gòn của tôi thất thủ tôi cũng không khóc như thế bởi lúc ấy tôi là người trong cuộc, tôi bận rộn trong bệnh viện lo cấp cứu những người chạy ngược chạy xuôi, đã ngã xuống vì những viên đạn vô hồn. Hôm ấy tôi không có thời gian để khóc. Hôm nay tôi đứng ngoài, nhìn thoáng một cảnh đời mà một lần tôi đã sống. Và tôi không hiểu vì sao chuyện xảy ra ở một nơi xa lơ lắc lại làm tôi khốn khổ đến như vậy. Tôi đứng trước bồn cầu, tôi giật nước cầu tiêu để không ai nghe tiếng khóc của tôi. Tôi khóc thỏa thuê. Tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước bồn cầu ngưng chảy, tôi lại giật cho nước ào ào tuôn xuống.

Tôi để mặc cho nước mắt tuôn. Tôi mong nước mắt làm nhoè đi hay xóa hẳn hình ảnh tôi lỡ thấy trên màn hình. Những con người xô đẩy nhau cố chạy theo chiếc máy bay, mong lọt được qua khung cửa đã khép kín của chiếc máy bay khổng lồ. Tôi để mặc nước mắt tuôn chảy để nước mắt cuốn đi hình ảnh những con người bị bỏ đói trong trại giam, những thân hình còm cõi, kéo gỗ trên núi, bên ngọn đèo heo hút, gió lạnh cắt da. Và xóa luôn đi hình ảnh tên đàn ông có chiếc khăn đen che nửa khuôn mặt, kề lưỡi dao vào cổ một người đồng hương mà cắt thật ngọt.

Tôi khóc hoài trong cầu tiêu. Tôi giật nước cầu không biết bao nhiêu lần. Cho đến khi tiếng gõ cửa và giọng em vang vọng bên ngoài, “Anh ơi, anh có ở trong đó không?”

Tôi vội vàng lên tiếng nhưng giọng tôi khê đặc. Tôi không nói nên lời.

Bên ngoài, em vẫn cuống cuồng, “Anh ơi, anh có sao không?”

Tôi vội vàng giật nước thêm một lần để em biết tôi vẫn ở trong nhà vệ sinh, và tôi vẫn bình yên.

Tôi nuốt cơn nghẹn. Tôi vớt nước lạnh lên mặt. Một lần, mắt tôi vẫn đỏ ngầu. Tôi vớt nước lên mặt thêm một lần, rồi bao nhiêu lần nữa tôi cũng không nhớ. Tôi mở vòi nước lạnh, áp sát mặt tôi vào dòng nước. Mong nước cuốn đi hình ảnh những con người cuống cuồng chạy về phía bình yên.

Chính tôi cũng đã một lần cuống cuồng chạy về phía bình yên như thế.

“Anh ơi, anh có trong đó không?” Giọng nói em đã đọng đầy lo âu.

Tôi đằng hắng, rồi tôi nói vọng ra, “Anh không sao hết.”

“Sao anh ở trong ấy lâu vậy?”

“Anh hơi bị đau bụng chút xíu.”

“Lẹ đi, đồ ăn nguội hết rồi kìa.”

“Anh ra liền.”

Tôi lắc đầu thật mạnh, cố không nghĩ tới hình ảnh vô tình bắt gặp trên màn hình ti vi gắn trên tường nhà hàng trước mặt chỗ tôi ngồi ban nãy. Rồi tôi vớt nước lạnh lên mặt thêm một lần, nhìn mặt mình trong gương một lần nữa, rồi rụt rè bước ra ngoài.

Đĩa mì xào dòn, đĩa thịt vịt Bắc Kinh, đĩa rau cải xanh biếc, tất cả đã sắp hàng chờ đợi trên bàn. Và những người bạn kiên nhẫn ngồi chờ. Những con mắt nhìn tôi đăm đăm.

“Are you okay?”

Tôi vội vã gật đầu. Trên tường màn hình ti vi vẫn tiếp tục bản tin ban nãy. Tôi thoáng thấy hình ảnh tổng thống Mỹ. Âm thanh lùa vào tai tôi. Tôi cố không nghe. Dường như ông ta đang đọc diễn văn gì đó và chắc chắn bài nói chuyện ấy liên hệ đến chuyện đang xảy ra ở cái xứ sở nghèo nàn, khốn khổ kia.

Tôi rụt rè, “Làm ơn cho tôi đổi chỗ ngồi được không.”

Người bạn đứng dậy nhường chỗ cho tôi. Tôi bước qua, ngồi xuống chiếc ghế, xoay lưng lại phía màn hình ti vi.

Em nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi mừng vì em không hỏi như vẫn thường hay thắc mắc. Nhưng rồi em vẫn không để tôi yên, bởi bỗng dưng em nhỏ giọng, “Sao mắt anh đỏ ngầu vậy?”

Tôi ngập ngừng, “Dị ứng đó.” Và tôi đổ thừa cho bầu trời mịt mù khói xám của những trận cháy rừng ngày hôm trước. Rồi tôi cố lên giọng khôi hài, “Chừng này tuổi rồi mà vẫn dị ứng với khí hậu.” Và tôi thầm nói trong đầu, “thứ khí hậu bất lương của con người.”

Tôi không nói thật với em vì sao mắt tôi đỏ ngầu. Bởi em còn nhỏ, em chẳng bao giờ hiểu được tâm trạng của những con người cùng đường, trốn chạy sự hung hãn, tàn bạo của những kẻ cùng màu da với mình.

Hôm nay Kabul thất thủ, em biết không?

Trên đường bay từ Calgary về Toronto ngày 17 tháng Tám 2021

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.