Hôm nay,  

Chạy Về Phía Bình Yên

29/08/202108:58:00(Xem: 3676)


Buổi chiều mưa rây rây. Thành phố lạ. Nhà hàng có cái tên quen. Chúng tôi vào, náo nức gọi món ăn. Sau gần một tuần lễ rong ruổi núi đá chênh vênh, với thác nước tung bọt trắng, với mặt hồ biếc xanh, với vô vàn những con dốc cheo leo, chúng tôi về thành phố. Cả tuần lễ ăn toàn đồ Tây, hôm nay ai cũng thèm món Á châu.

Vừa ngồi vào ghế, âm thanh nhốn nháo đã kéo tôi ngước nhìn màn hình ti vi trước mặt. Khung cảnh quen thuộc từ ký ức nào đó bỗng dưng chói lòa. Lũ người chen chúc nhau bu quanh chiếc máy bay khổng lồ đang lăn bánh trên phi đạo. Mắt tôi dán lên màn hình. Ngực tôi thắt lại. Tôi không dám nhìn. Tôi nhắm mắt. Tôi cố không nghe. Nhưng hình ảnh và những âm thanh ấy vẫn còn. Thật rõ nét. Dù tôi chỉ tình cờ bắt gặp.

Rồi tôi mở mắt. Những hình ảnh trên màn hình nhòe đi. Tôi dụi mắt để nhìn cho rõ, và tôi nhận ra mắt tôi ướt mèm. Tôi xô ghế đứng bật dậy, chạy vội vào nhà vệ sinh. Nơi yên ổn cuối cùng. Tôi đứng đó, khóc một mình. Tôi khóc mùi như đứa con gái yêu thương hết lòng mà bị người yêu ruồng rẫy.

Tiếng cửa mở. Một người đàn ông vào nhà vệ sinh. Tôi giấu vội cơn xúc động. Tôi quay mặt vào vách tường. Tôi chờ. Nước mắt nước mũi tràn trề. Tôi không dám khịt mũi. Tôi sợ người ta nghe thấy. Tôi mặc cho nước mũi chạy tuột xuống cằm. Cảm giác nhột nhạt, ngứa ngáy bò lan trên mặt. Những hình ảnh chợt thấy trên ti vi hiện ra trên vách tường, ngay trước mắt tôi. Có một lần tôi đã thấy những người tôi quen, những người thân yêu của tôi cuống cuồng tháo chạy như thế.

Dùng nhà vệ sinh xong, gã đàn ông đứng mãi trước tấm gương soi. Tôi chờ bên trong cầu vệ sinh. Không có gì để làm. Tôi đứng đó. Tôi cố gắng xoá bỏ những hình ảnh vô tình trông thấy trên màn hình. Tôi bị nghe chưa đầy một phút nhưng giọng người phóng viên hằn rõ đến từng chữ trong óc tôi. Tôi không thích cái mạch lạc của những câu nói trong bài tường trình của anh ta. Tôi cũng đã cố không nghe nhưng tôi không thể làm gì hơn. Những câu tường trình gẫy gọn bằng thứ Anh ngữ tiêu chuẩn. Rõ ràng, rành mạch. Tôi không thể ở đó mà không nghe thấy. Phải như anh ta tường trình bằng thứ ngôn ngữ nào khác thì hay biết mấy. Như tiếng Ả Rập, tiếng Ma Rốc, tiếng Nga hay ngay cả tiếng Dari hoặc Pashto là ngôn ngữ của cái nơi người ta đang chen lấn xô đẩy nhau để cố bám vào càng chiếc máy bay quân sự khổng lồ kia.

Bỗng dưng tôi ghét tiếng Anh, thứ ngôn ngữ quốc tế mà không có nó thì sẽ phải xoay sở chật vật trong cái thế giới chật hẹp này. Tôi ghét đài truyền hình thành phố nỡ trình chiếu giây phút lịch sử bi thảm của một dân tộc ngay trước mắt tôi. Tôi cũng ghét anh chàng phóng viên nói tiếng Anh gẫy gọn, lưu loát. Tôi ghét tôi tại sao lại học tiếng Anh. Tôi ghét chủ nhà hàng khi không lại mở ngay cái đài truyền hình, lúc đài ấy đang truyền đi hình ảnh giây phút hấp hối của một đất nước mà cái bi thảm của thân phận những con người chạy trốn sự man rợ lại vô cùng quen thuộc và gần gũi với đất nước tôi.

Người đàn ông trong nhà vệ sinh đã mở cửa bước ra ngoài. Tôi biết rõ bởi tôi nghe tiếng cánh cửa đóng sập lại. Và tôi không kềm được nữa. Tôi khóc òa. Cơn ấm ức bị nén chặt trong lồng ngực bung ra. Tức tưởi. Trong đời đây là lần thứ nhì tôi khóc như đứa trẻ. Lần đầu tôi khóc khi lầm lũi bước theo sau quan tài của mẹ tôi.

Ngày Sài Gòn của tôi thất thủ tôi cũng không khóc như thế bởi lúc ấy tôi là người trong cuộc, tôi bận rộn trong bệnh viện lo cấp cứu những người chạy ngược chạy xuôi, đã ngã xuống vì những viên đạn vô hồn. Hôm ấy tôi không có thời gian để khóc. Hôm nay tôi đứng ngoài, nhìn thoáng một cảnh đời mà một lần tôi đã sống. Và tôi không hiểu vì sao chuyện xảy ra ở một nơi xa lơ lắc lại làm tôi khốn khổ đến như vậy. Tôi đứng trước bồn cầu, tôi giật nước cầu tiêu để không ai nghe tiếng khóc của tôi. Tôi khóc thỏa thuê. Tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước bồn cầu ngưng chảy, tôi lại giật cho nước ào ào tuôn xuống.

Tôi để mặc cho nước mắt tuôn. Tôi mong nước mắt làm nhoè đi hay xóa hẳn hình ảnh tôi lỡ thấy trên màn hình. Những con người xô đẩy nhau cố chạy theo chiếc máy bay, mong lọt được qua khung cửa đã khép kín của chiếc máy bay khổng lồ. Tôi để mặc nước mắt tuôn chảy để nước mắt cuốn đi hình ảnh những con người bị bỏ đói trong trại giam, những thân hình còm cõi, kéo gỗ trên núi, bên ngọn đèo heo hút, gió lạnh cắt da. Và xóa luôn đi hình ảnh tên đàn ông có chiếc khăn đen che nửa khuôn mặt, kề lưỡi dao vào cổ một người đồng hương mà cắt thật ngọt.

Tôi khóc hoài trong cầu tiêu. Tôi giật nước cầu không biết bao nhiêu lần. Cho đến khi tiếng gõ cửa và giọng em vang vọng bên ngoài, “Anh ơi, anh có ở trong đó không?”

Tôi vội vàng lên tiếng nhưng giọng tôi khê đặc. Tôi không nói nên lời.

Bên ngoài, em vẫn cuống cuồng, “Anh ơi, anh có sao không?”

Tôi vội vàng giật nước thêm một lần để em biết tôi vẫn ở trong nhà vệ sinh, và tôi vẫn bình yên.

Tôi nuốt cơn nghẹn. Tôi vớt nước lạnh lên mặt. Một lần, mắt tôi vẫn đỏ ngầu. Tôi vớt nước lên mặt thêm một lần, rồi bao nhiêu lần nữa tôi cũng không nhớ. Tôi mở vòi nước lạnh, áp sát mặt tôi vào dòng nước. Mong nước cuốn đi hình ảnh những con người cuống cuồng chạy về phía bình yên.

Chính tôi cũng đã một lần cuống cuồng chạy về phía bình yên như thế.

“Anh ơi, anh có trong đó không?” Giọng nói em đã đọng đầy lo âu.

Tôi đằng hắng, rồi tôi nói vọng ra, “Anh không sao hết.”

“Sao anh ở trong ấy lâu vậy?”

“Anh hơi bị đau bụng chút xíu.”

“Lẹ đi, đồ ăn nguội hết rồi kìa.”

“Anh ra liền.”

Tôi lắc đầu thật mạnh, cố không nghĩ tới hình ảnh vô tình bắt gặp trên màn hình ti vi gắn trên tường nhà hàng trước mặt chỗ tôi ngồi ban nãy. Rồi tôi vớt nước lạnh lên mặt thêm một lần, nhìn mặt mình trong gương một lần nữa, rồi rụt rè bước ra ngoài.

Đĩa mì xào dòn, đĩa thịt vịt Bắc Kinh, đĩa rau cải xanh biếc, tất cả đã sắp hàng chờ đợi trên bàn. Và những người bạn kiên nhẫn ngồi chờ. Những con mắt nhìn tôi đăm đăm.

“Are you okay?”

Tôi vội vã gật đầu. Trên tường màn hình ti vi vẫn tiếp tục bản tin ban nãy. Tôi thoáng thấy hình ảnh tổng thống Mỹ. Âm thanh lùa vào tai tôi. Tôi cố không nghe. Dường như ông ta đang đọc diễn văn gì đó và chắc chắn bài nói chuyện ấy liên hệ đến chuyện đang xảy ra ở cái xứ sở nghèo nàn, khốn khổ kia.

Tôi rụt rè, “Làm ơn cho tôi đổi chỗ ngồi được không.”

Người bạn đứng dậy nhường chỗ cho tôi. Tôi bước qua, ngồi xuống chiếc ghế, xoay lưng lại phía màn hình ti vi.

Em nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi mừng vì em không hỏi như vẫn thường hay thắc mắc. Nhưng rồi em vẫn không để tôi yên, bởi bỗng dưng em nhỏ giọng, “Sao mắt anh đỏ ngầu vậy?”

Tôi ngập ngừng, “Dị ứng đó.” Và tôi đổ thừa cho bầu trời mịt mù khói xám của những trận cháy rừng ngày hôm trước. Rồi tôi cố lên giọng khôi hài, “Chừng này tuổi rồi mà vẫn dị ứng với khí hậu.” Và tôi thầm nói trong đầu, “thứ khí hậu bất lương của con người.”

Tôi không nói thật với em vì sao mắt tôi đỏ ngầu. Bởi em còn nhỏ, em chẳng bao giờ hiểu được tâm trạng của những con người cùng đường, trốn chạy sự hung hãn, tàn bạo của những kẻ cùng màu da với mình.

Hôm nay Kabul thất thủ, em biết không?

Trên đường bay từ Calgary về Toronto ngày 17 tháng Tám 2021

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.