Hôm nay,  

Gian Dối, Thêm Một Lần

3/18/202200:00:00(View: 2172)

 
1
“Có chuyến,” người thanh niên thì thầm, hai con mắt kín đáo liếc quanh, rồi chồm ra phía trước, hạ giọng, “Đi không?”

“Đi một mình à?” Cô gái tròn hai con mắt, hỏi.

Lại đảo mắt ngó quanh, người thanh niên khẽ gật đầu.

“Đi một mình mà coi được à?” Cô gái nói, giọng đanh lại.

Người thanh niên trợn mắt, “Nói nhỏ chút coi.” Rồi anh dịu giọng, “Hai đứa mình mà.”

Cô gái cau mày, xuống giọng, “Thế còn… còn Khải thì sao?

“Mai mốt sang bên ấy, bảo lãnh Khải.” Người thanh niên nói nhanh, như sợ không còn dịp nào để nói.

Người con gái ngần ngừ suy nghĩ. Những ngón tay xoắn xuýt cái muỗng, như thể muốn bẻ cong nó. Người thanh niên nhấp nhổm trên chiếc ghế nhựa. Ly cà phê còn nguyên, đã nguội. Ly chè đã tan hết đá thành một váng nước lỏng bên trên những hạt đậu đen và những miếng thạch vuông vức.

Người thanh niên nhìn quanh. Quán vắng. Âm thanh láo nháo từ dàn máy hát. Trường Sơn Tây anh đi, thương em bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo... Người thanh niên nhìn vào mắt cô gái. Loang loáng những vết buồn trong ấy. Ý nghĩ ngổn ngang trong đầu hai người. Họ nhìn vào mắt nhau. Nhìn hoài.

Thật lâu sau, cô gái hỏi, “Chừng nào đi?”

“Tối nay.”

Cô gái bật người dậy trên ghế, “Tối nay à?”

Người thanh niên không trả lời. Hai con mắt vẫn xoáy vào đôi mắt buồn trên khuôn mặt trái soan.

“Sao sớm quá vậy?” Cô gái hỏi, những ngón tay mân mê cán muỗng.

Người thanh niên cau mày, “Có chuyến thì phải đi chứ.”

“Đi một mình mà được à?” Cô gái lớn tiếng, giọng chì chiết.

“Đã bảo đi với Hùng mà.” Người thanh niên gằn giọng, thì thào, “Nói nhỏ thôi.”

“Còn Khải…”

“Đã bảo mai mốt qua bên đó, mình bảo lãnh Khải mấy hồi.”

Hai con mắt chớp. Cái muỗng xoắn xuýt trong lòng bàn tay. Vầng trán lờ mờ những nếp nhăn. Cô gái mím chặt đôi môi. Đôi môi không thoa son nhưng lúc nào cũng thắm đỏ.

Sau cùng, cái đầu tròn lúc lắc, nửa như gật đầu, nửa như lắc đầu, “Thôi, thế cũng được.”

Người còn trai thở phào, đưa bàn tay qua mặt bàn, đặt nhẹ lên lưng bàn tay cô gái. Bàn tay anh chạm vào chiếc nhẫn vàng mỏng mảnh ở ngón tay đeo nhẫn. Những ngón tay người con gái duỗi ra, buông cái muỗng bạc xuống mặt bàn gỗ.

“Sao… sao tay Liên lạnh thế?” Người thanh niên ấp úng.

Cô gái rụt bàn tay lại, lặng thinh.  

Người thanh niên chồm người ra trước, thì thầm, “Mười một giờ đêm nay người ta đến đón.”

“Anh Khải không cho em ra ngoài một mình ban đêm đâu.” Cô gái nói. Đôi môi chu lại như giận dỗi.

Người thanh niên cắn môi, những nếp nhăn lờ mờ trên vừng trán. Rồi trên khuôn mặt trai trẻ hiện lên một nụ cười, “Thì em nghĩ đại ra một câu nói dối nào đó. Em nói dối Khải, đi gặp anh hoài mà nó đâu có biết. Nói dối thêm lần này nữa thôi.”

Hết bản nhạc, quán im ắng. Hai người im lặng nhìn nhau. Bà chủ quán thay băng nhạc khác. Tiếng chày trên sóc Bambo gì gì đó.

“Thì thôi vậy. Lần cuối cùng đấy,” người con gái chỉ ngón tay vào ngực người thanh niên. “Em nói dối cho anh, lần cuối.”

“Cho em và anh.” Người thanh niên ngắt lời. Cô gái nguýt dài. Người thanh niên cười cầu hòa, “Thôi em ăn chè đi, mình còn về sửa soạn.”

Người con gái đẩy ly chè qua một bên, “Ai mà ăn nổi chứ!”

Chỉ đơn giản có thế. Và họ đi cùng chuyến. Ghe không lớn lắm. Sáu mươi mấy người chen chúc nhau dưới hầm. Tiếng máy khậm khoạc inh tai. Được một ngày một đêm thì máy nóng, tỏa khói mịt mù. Bầy người giúi đầu vào nhau, tay quạt liên hồi, miệng nhào nháo những cơn ho. Tài công tắt máy, chờ cho nguội bớt. Gặp cơn bão nhiệt đới. Sóng cao như những ngọn đồi. Chiếc ghe lắc đám dân vượt biên chồng chất trong khoang như lắc những con xúc sắc trong lòng đĩa. Cơn bão lắng dần, người nằm vùi cả lên nhau. Người con gái co quắp một xó. Người thanh niên co ro một xó khác, lẫn lộn giữa những thân người xa lạ. Ướt át, nhớp nhúa, hôi hám nồng nặc.

Tàn cơn bão, biển lặng, sóng êm. Dưới ánh sáng lờ mờ của hầm tàu, người thanh niên nhìn quanh, toàn những khuôn mặt lạ. Cô gái tỉnh dậy, tròn mắt nhìn người đàn ông không quen mà cô đang nằm úp trên ngực anh ta. Cô luống cuống chống tay ngồi dậy. Chân tay nhơm nhớp chất bài tiết. Nhìn quanh. Toàn những người lạ. Mãi, hai người mới nhìn thấy nhau. Nhưng xa quá, và đầu óc cả hai cùng quay cuồng, không thể vạch những thân người đang chồng chất lên nhau để tìm đến với nhau. Đành ngồi dựa vách ghe, nhìn nhau, đờ đẫn. Chuyện trò bằng mắt.

Liên có sao không.
Em không sao.
Anh sao rồi.
Cũng không sao. Chỉ say sóng.
Em cũng say sóng. Mình đến đâu rồi nhỉ.
Chắc ra khỏi hải phận Việt Nam rồi.
Thật không anh.
Mình đi mấy ngày rồi mà.
Mấy ngày anh nhớ không.

Nói bằng mắt nên không được nhiều. Nhưng hiểu hết những điều trao gửi. Chợt ai đó mở hé cái nắp đậy khung cửa trên đầu, một bầu trời rực nắng bên ngoài. Một vạt nắng tạt xuống hầm tối. Những con người tù túng dưới hầm tầu nhắm vội mắt lại vì chói. Kẻ vừa mở cái nắp vuông ấy nói vọng xuống, “Tới dàn khoan ngoài hải phận quốc tế rồi, bà con ơi!”

Đám người say sóng dưới hầm rú lên mừng rỡ. Ngồi ở tận góc cuối hầm tàu, người thanh niên nghểnh cố nhìn về phía cô. Trong vạt nắng xéo lọt qua khung cửa, anh thấy cô gái - từ hôm nay là cô gái của riêng anh – đưa tay lau mắt. Nước mắt hay nước biển anh không rõ.   

2
“Họ và tên anh là gì?”

Sau một giây ngỡ ngàng, người thanh niên đọc tên mình.

“Còn cô?”

Người thanh niên quay qua nhìn cô gái. Cô nhìn lại anh, rồi đọc tên cô cho nhân viên Cao Ủy Liên Hiệp Quốc.

“Hai người là gì với nhau?”

Người thanh niên ngập ngừng, “Là…”

“Tụi em là…” Người con gái cướp lời.

Người nhân viên da trắng nhìn anh, rồi nhìn qua cô gái. Ngọn bút nằm chờ trên trang giấy.

“Vợ chồng.” Người thanh niên nói vội.

Cô gái há hốc miệng, xoay qua nhìn người thanh niên, rồi ngậm ngay miệng lại.

Người nhân viên đánh dấu X vào ô “vợ chồng” trên trang giấy. Hai người ký tên vào hồ sơ tị nạn. Xong, người nhân viên đứng dậy, chìa tay ra bắt. Cô gái rụt rè bàn tay mềm. Người thanh niên run run nắm lấy bàn tay người nước ngoài đầu tiên mà anh tiếp xúc, kể từ khi cửa địa ngục sập xuống nửa còn lại của quê hương.

“Chúc mừng ông bà đến đất tự do.” Người nhân viên tươi cười.

“Cảm ơn ông. Ông nói tiếng Việt hay quá.” Người thanh niên nói, mắt không rời đôi mắt biếc xanh màu nước biển.

“Trước đây tôi làm việc ở Việt Nam,” người nhân viên Liên Hiệp Quốc nói. “Hai ông bà chung một hồ sơ định cư. Xin chúc mừng.”

Chỉ đơn giản như thế. Họ về ở với nhau.

Năm đó hai ông bà “đồng bào tị nạn” ấy mới vừa tròn hai mươi tuổi.

3

Chuyện không vui xảy ra đúng ba tháng sau khi đến định cư ở một thành phố vùng tây nam tỉnh bang Ontario. Một buổi chiều, tan giờ học Anh văn, Liên ghé chợ mua thức ăn về nấu cơm. Hùng ở nhà sắp xếp lại đống quần áo cũ.

“Cái giẻ rách này bỏ đi nhé.” Hùng vừa nói vừa vung vẩy cái áo len màu cà phê, cũ rích.

Liên đang xắt củ hành tím thành những lát mỏng để xào thịt bò, ngẩng đầu lên nhìn. Thấy chiếc áo, cô ngưng tay xắt hành, tròn hai con mắt, “Không được.”

“Giữ làm gì?”

“Thì cứ để đấy.”

“Cũ rích rồi. Bên này thiếu gì áo. Nhà thờ mới cho một đống, mặc đến vài năm cũng chưa hết.”

“Cứ để đấy cho em.” Cô nói và trở lại với những lát hành. Hành tím tỏa ra cái vị cay ngợp không gian. Cô chớp mắt vội cho bớt cay. Và nước mắt bỗng từ đâu trào ra đầm đìa trên má.

Đàng kia, Hùng quăng chiếc áo len cũ xuống giường, cau có, “Lại khóc đấy à. Đã như thế thì việc gì phải theo người ta xuống ghe.”

Trong góc căn bếp chật chội, những lát hành mỏng vẫn được xắt ra đều đặn. Tiếng dao chạm lên thớt vẫn xen kẽ tiếng sụt sùi.

“Có bao nhiêu thứ để mang theo, mắc mớ gì lại đem theo cái thứ ấy.” Người đàn ông nói vọng ra sau bếp.

Từ trong bếp vọng lại tiếng người đàn bà, ướt như tẩm nước, “Chạy như chạy giặc, có thì giờ đâu mà lựa với chọn.”

“Lấy theo cái áo len làm gì?”

“Sợ xuống ghe lạnh thì sao?”

“Áo len mình sao không lấy theo mà lấy áo len của nó?”

Không có tiếng của người đàn bà. Chỉ có tiếng sụt sùi. Người đàn bà không tìm ra câu trả lời. Và nước mắt bỗng dưng dàn dụa. Không biết tại những lát hành tím cay nồng hay tại một nỗi niềm nào khác chôn kín trong lòng.

Cuộc sống cứ thế trôi đi. Năm này qua năm khác.

4

Một buổi tối, ngồi với nhau trong phòng khách, xem xong một đoạn phim tài liệu về Việt Nam, hai vợ chồng ngậm ngùi nhìn nhau. Không nói gì với nhau nhưng lòng cả hai cùng lắng xuống thật sâu, thật trầm.

Những góc phố, những lề đường trong cuốn phim bỗng làm Hùng nhớ tới Khải. Lòng anh chơi vơi như con nước xoáy lên khi chảy qua khúc ngoặt. Những con đường ba đứa rong chơi thuở nào. Liên, Khải, Hùng. Thân nhau không rời. Tình cảm chia đều. Như ba cạnh trong một tam giác đều, mỗi góc đều được chia sáu mươi độ. Đi đâu cũng có nhau, bỗng một ngày, Khải với Liên báo cho Hùng cái tin vui. Cười ngoài miệng mà đắng chát trong lòng. Vậy nhưng Hùng không bỏ đi như những kẻ thất tình. Hùng vẫn là người bạn chí thân của đôi vợ chồng mới cưới. Tại phần số trớ trêu, trong lúc Khải quanh quẩn chợ trời thì Hùng dắt mối vượt biên. Chuyến sau cùng anh được cho một chỗ. Nếu như ngày ấy anh không rủ Liên đi, thì giờ này Liên vẫn là bà Khải và ba người - biết đâu - vẫn còn quấn quýt bên nhau.

“Không biết Khải dạo này ra sao nhỉ?” Anh buột miệng nói, giọng ngậm ngùi.

Cái tên làm Liên giật mình. Chị nhìn màn hình nhấp nháy những hình ảnh chồng chập lên nhau, lẩm bẩm,

“Chắc... vẫn vậy.”

“Chắc giờ này nó khá lắm rồi, thành đại gia không chừng.” Hùng nói, thả tia nhìn vào khoảng không gian nhỏ bé trước mặt, “Hồi nhỏ, nó học giỏi. Toàn đứng đầu lớp.”

“Học giỏi mà không giỏi lươn lẹo thì cũng chẳng khá được.” Vừa nói Liên vừa đưa tay gỡ cụm tóc lòa xòa trước trán. “Hồi đó anh Khải chạy chợ trời chẳng đâu vào đâu.”

Hùng chìm sâu vào vùng kỷ niệm ấu thơ, “Hồi học chung lớp, làm bài thi anh hay cọp pi của nó.”

Liên cũng chìm, nhưng chìm vào một vũng kỷ niệm khác, “Buôn bán chợ trời toàn từ thua đến lỗ.”

Hùng mỉm cười, một mình, “Đám con gái cùng lớp thích nó lắm.”

Liên chua chát, một mình, “Bao nhiêu năm buôn bán chợ trời, mua được mỗi cái áo len tặng vợ, về xem lại thì lại là áo len đàn ông. Rõ chán cái ông Khải ấy!”

Khải. Cái tên cấm kỵ. Nhắc đến là xào xáo nên cả hai cùng tránh, bởi cái tên ấy như đầu máy con tàu, kéo theo chập chùng những toa chất chồng kỷ niệm. Vì vậy, mỗi khi cái tên dạt về trí nhớ, cả hai cùng nhanh chóng chặn lại như cố bít một lỗ thủng rỉ nước bên bờ đê. Hôm nay, trời xui đất khiến, cái tên dạt về trong câu chuyện mà không ai tìm cách xua đuổi. Và người bạn học thân thiết năm xưa, người chồng tận tụy thuở trước trở về, lừng lững trong căn phòng của đôi vợ chồng đã bao năm tháng bấp bênh ở xứ người. Hùng đưa tay lấy đồ bấm ti vi, nhấn nút tắt tiếng. Căn phòng chợt im vắng.

Hùng rì rầm, “Anh vẫn nhớ hồi lớp ba lớp tư gì đó, anh rủ nó đi bắt chim. Anh đứng dưới giữ cái khung dàn hoa gỗ cho nó trèo lên vách tường khu cư xá sĩ quan, luồn tay dưới mái ngói, bắt chim non.”

Liên nhỏ nhẹ, “Nhớ hồi ấy anh Khải đem một lô sách ra chợ trời, chẳng ai thèm mua một cuốn.”

Hùng phấn kích, “Một lần bị người ta cầm gậy đuổi, đang giữ cái khung thang, anh sợ quá, bỏ chạy làm nó bị ngã.”

Liên khẽ lắc đầu, “Có lần phải đem sách đi bán cho mấy bà mua ve chai.”


Hùng ngậm ngùi, “Cái sẹo ở dưới cằm nó còn hoài.”

Liên cũng ngậm ngùi, “Tụi mình nghĩ cũng kỳ. Ai đời ba đứa chơi chung thân thiết biết bao lâu, bỗng dưng...”

Hùng lên giọng oán trách, “Cũng tại em. Cứ bạn với nhau hoài có phải là vui không?”

Liên xuống giọng trách móc, “Tại anh, yêu thầm thì ráng chịu.”

Hùng nhanh nhảu, “Tại nó mau mồm miệng. Mà em thì lại dễ ngã lòng.”

Như hai gam màu đặt chung vào một ngăn pha, và cây cọ xoay hoài, quậy hoài, cho đến khi nỗi ngậm ngùi trong lòng hai người hòa chung một sắc màu. Họ nhìn nhau, ngỡ ngàng rồi mỗi người quay đầu nhìn qua một hướng khác, lặng thinh. Không gian keo đặc.

Bất chợt, Hùng nói, “Hay mình về thăm nó một chuyến xem sao nhỉ?”

Câu nói chìm lỉm vào khoảng không gian đặc cứng.

Im lặng. Hùng nín thở một lúc lâu, rồi thở ra, “Dù sao cũng nên nói với nó một lời.”

Tiếng rì rào của cái tủ lạnh nghe như tiếng mưa rào.

Hùng chép miệng, “Ai cũng già hết rồi. Tóc không kịp nhuộm là bạc trắng.”

Vẫn im lặng. Trong khoảng không gian chật hẹp của căn phòng, tiếng rì rầm của cái tủ lạnh bỗng rền vang, như tiếng máy chiếc xe lấy rác vẫn lê lết khoảng đường trước nhà mỗi sáng thứ Tư.

Liên cắn môi, phân vân, “Anh định nói gì với anh ấy?”

Hùng hăng hái, “Chuyện mình với nhau là duyên phận.” Anh dừng lại, chờ một câu khẳng định của Liên, rằng chuyện hai người lấy nhau là phần số, rằng Trời đã định thì trốn đâu cũng chẳng thoát; nhưng Liên vẫn trầm ngâm. Hùng bỗng mang cảm giác của người đi lạc, ở một nơi rất lạ, chỉ có một mình. Anh nhìn đăm đăm những hình ảnh lao xao trên màn ảnh ti vi, “Dù sao nó cũng là thằng bạn tốt. Cả ba đứa mình đã từng là bạn tốt của nhau…”

Liên băn khoăn, “Anh nghĩ anh Khải có tha thứ cho em không?”

Hùng quay sang nhìn Liên, “Sao em lại nói thế?”

Liên tròn mắt ngạc nhiên. Hùng muốn nói với vợ rằng em nói thế nghĩa là em cho rằng chuyện em về với anh là lỗi lầm, và tình yêu em dành cho anh là sai trái. Nhưng thấy vợ ngơ ngác, anh lặng thinh.

“Anh nghĩ anh Khải có bỏ qua cho em không?” Liên hỏi lại.

“Ai mà biết.” Hùng nhìn lên trần nhà. Không có con thạch sùng nào bắt muỗi trên ấy, như ở bên nhà, ngày trước.

“Nếu về,” Liên thì thầm, như chỉ cho một mình mình nghe. “Em sẽ đem cái áo len trả lại anh ấy.”

Hùng lặng thinh. Trong cái tĩnh lặng của buổi chiều, anh nghe tiếng Liên thở dài, và câu nói thoảng qua như thoáng gió, “Tụi mình cũng kỳ hết biết. Âm thầm bỏ đi vậy mà coi được!”

5

Mất gần đúng một ngày, Hùng mới tìm ra được cái ngõ hẻm năm xưa. Con ngõ co lại giữa những ngôi nhà cao thấp không đều, chồm ra lối đi. Anh rảo bước theo thằng bé dẫn đường. Anh phải nhanh chân mới theo kịp cái thân hình nhỏ bé lao đi thoăn thoắt giữa những gánh gồng, hàng quà và xe cộ vùn vụt trong con ngõ.

Anh thấy quay cuồng như người không biết bơi, chới với chìm vào vũng âm thanh nhào nháo. Tiếng còi xe, tiếng cười nói, tiếng la mắng, tiếng chửi rủa, tiếng rao hàng, tiếng máy hát, tiếng chó sủa. Tất cả trộn vào nhau thành một mớ nhùng nhằng tiếng động. Thỉnh thoảng một chiếc xe gắn máy chạy vụt qua mặt anh, quệt sát vào người anh khiến anh hoảng hốt đảo người qua một bên để tránh, chân tay bủn rủn.

Qua không biết bao nhiêu căn nhà. Vấp chân lên những bậc thềm nhô ra ngoài con ngõ không biết bao nhiêu lần, anh vừa rảo bước vừa hì hạch thở. Chiều đã nghiêng nhưng nắng vẫn chưa tàn. Mồ hôi ướt đầm lưng áo. Đang ngon trớn rảo bước, thằng bé bỗng chạy vù lên bậc thềm một căn nhà, đứng sựng lại, chỉ tay vào khung cửa, “Nhà ông Khải đây, chú.”

Trong nhà rộn ràng tiếng đàn ông cười nói. Mùi hành, tỏi, thịt xào, thịt nướng tỏa ra nồng nặc.

Hùng ngập ngừng trên bậc thềm, “Đúng nhà ông Khải không cháu?”

Thằng bé không trả lời mà xăm xăm bước vào nhà. Hùng nheo mắt nhìn vào. Trong khoảng vuông tối sáng nhập nhằng, một đám bốn năm người đàn ông quây quần quanh những bát đĩa thức ăn đặt trên nền nhà. Thằng bé đến sau lưng một người đàn ông râu tóc bù xù, đặt tay lên vai ông ta, lắc mạnh, “Ông Khải ơi, có ai tìm kìa.”

Người đàn ông buông đũa xuống, ngẩng mặt lên nhìn ra. Hùng nheo mắt cho quen với khoảng tối trong nhà. Một khuôn mặt xương xẩu hiện ra trước mắt anh. Khuôn mặt lạ lẫm. Thằng bé chạy ra chỗ anh, nghểnh cổ chờ. Anh móc túi lấy tờ giấc bạc mười đồng tiền Mỹ giúi vào tay thằng bé, hỏi nhỏ, “Cháu có chắc là nhà ông Khải không?”

“Đúng nhà Khải đây,” giọng nói khàn vọng ra từ khuôn mặt xương xẩu. “Cậu là ai, tìm tôi có việc gì đấy?”

Thằng bé mân mê tờ giấy bạc trước khi đút sâu vào túi áo, và quay lưng tuông chạy ngược ra đầu con ngõ.

Hùng tuột đôi giầy, dùng chân gạt chúng vào sát đống giầy dép ngổn ngang trên thềm xi măng. Người đàn ông đứng dậy, loay hoay gài dây thắt lưng, loạng choạng bước ra chỗ Hùng đứng.

“Tôi là Khải đây,” người đàn ông ngưng ngang câu nói, ôm ngực ho khan. Mùi rượu tỏa ra nồng nặc. Tàn cơn ho, ông ta hỏi trong hơi thở hổn hển, “Chú tìm anh có việc gì?”

Hùng chùn chân. Anh nín thở để tránh hơi rượu, tay mân mê cái dây túi vải đeo trên vai.

“Anh là Khải phải không?”

“Thì Khải chứ còn ai vào đây nữa.”

“Phải Khải học Văn Khoa ngày xưa không?”

Người đàn ông nhướng con mắt mệt mỏi lên nhìn Hùng, rồi xoa bàn tay lên bụng, gật gù, “Chính hắn. Còn chú là ai, kiếm anh có việc gì?”

“Tôi là… tôi là Dũng.”

“Dũng nào nhỉ?”

“Anh tôi là Hùng, hồi đó học chung với anh Khải.”

Đám đàn ông trong nhà tay đũa, tay muỗng vừa nhai, vừa ngểnh cổ nhìn ra. Người đàn ông ngẩn người ra một lúc, rồi đứng thẳng người, nhìn Hùng đăm đăm.

“Em của thằng Hùng đây à? Hèn gì thấy giống nó quá.”

Hùng nhìn cái sẹo trên cằm người đàn ông, nỗi bồi hồi nào đó chợt ùa đến bủa vây anh.

Người đàn ông chộp lấy cánh tay Hùng, “Vào đây, vào đây. Uống với anh một ly rượu mừng.”

Người đàn ông kéo anh vào nhà. Những người đàn ông quanh mâm rượu nhìn anh ngạc nhiên.

“Đây là em ruột của thằng bạn học cũ.” Người đàn ông khề khà nói và ấn Hùng ngồi xuống. Hai người đàn ông nhích qua nhường chỗ cho Hùng. Một người đặt cái ly, cái bát và đôi đũa trước mặt anh.

“Chú em ở đâu về thế?” Một người hỏi.

“Dạ, Canada.”

Người đàn ông đẩy ông bạn qua một bên, len vào ngồi cạnh Hùng, “Chú em thua thằng Hùng mấy tuổi?”

“Dạ… bốn, năm tuổi gì đó.”

“Hèn chi thấy còn trẻ quá,” câu nói của người đàn ông bị ngắt ngang bởi một cơn ho khan. Hết cơn ho, ông đổ rượu vào vào cái ly trống trước mặt Hùng, “Uống với anh một ly rượu mừng cái đã. À khoan.”

Những con mắt đổ về phía người đàn ông.

“Nãy giờ mình không biết giải quyết cái mật rắn hổ sao cho công bằng,” người đàn ông rề rà.

“Anh là chủ xị, thì anh toàn quyền,” một người nói.

“Hoặc bốc thăm cũng công bằng vậy,” người khác chêm vào.

“Không được. Bây giờ có chú em đây, khách nước ngoài về thăm. Dành cho chú ấy món quà ấy,” người đàn ông nói.

Thấy Hùng ngơ ngác nhìn mọi người, một gã còn khá trẻ giải thích, “Anh Khải mới mua được con rắn hổ, thế là cả nhà được uống rượu huyết rắn, còn cái túi mật chưa biết chia cho ai, bây giờ có chú em, chú em được hưởng trọn gói.”

Người đàn ông cầm cái ly thủy tinh bé tí đưa cho Hùng. Anh lúng túng cầm cái ly giữa hai đầu ngón tay. Trong lòng cái ly thủy tinh trong vắt, phập phều một túi nhỏ, tròn, màu đỏ thẫm, “Mật rắn hổ, chữa bách bệnh đấy, chú em.”

Mọi người rót rượu vào ly của mình. Và tất cả cùng cầm ly lên, hướng về phía Hùng, đồng loạt hò  hét, “Một, hai, ba, dzô!”

Những cái ly chạm vào môi. Rượu dốc ngược vào cổ họng. Những con mắt nheo mê muội, những tiếng khà thống khoái. Mọi người buông ly xuống, xoay qua nhìn cái ly bé tí vẫn nằm giữa hai ngón tay Hùng.

“Uống đi. Vừa uống vừa nghe thằng hàng xóm hát karaoke miễn phí. Chú không uống anh sẽ buồn. Ngày xưa thằng Hùng đã làm anh buồn, chú mày có biết không?” người đàn ông khàn giọng trách móc. “Thằng Hùng nó rủ rê vợ anh đi vượt biên với nó, chú mày có biết không?”

Hùng vội vã lắc đầu và dốc ngược cái ly con, nuốt ực túi mật rắn vào cổ họng. Bây giờ anh mới nhận ra giữa những âm thanh hỗn độn của con hẻm là tiếng hát karaoke rộn ràng của nhà nào đó bên hàng xóm.

“Không biết thật à?”

“Không biết thật.”

Người đàn ông gật gù, cánh tay run rẩy gắp một miếng thịt rắn xào bỏ vào bát của Hùng.

“Ờ, mà anh chơi với thằng Hùng từ bé, có bao giờ nghe nó nói là nó có đứa em trai nào đâu,” người đàn ông nói và xoay qua nhìn Hùng đăm đăm. Tất cả những con mắt quanh mâm rượu cũng chĩa vào Hùng.

Hùng lúng túng nhìn vội vào những con mắt đỏ ké chằng chịt tia máu của mấy ông bạn nhậu của chủ nhà rồi quay sang người đàn ông, “Em hồi nhỏ ốm đau bệnh tật hoài nên bố mẹ gửi bà con nuôi hộ.”

“Thế à?”

Hùng, như chiếc xe đứt thắng, thao thao, “Lớn lên về với bố mẹ, em quậy quá, ông bà già từ luôn, từ đó cả nhà nhất định không thèm nhắc tới em nữa.”
“Mấy cậu ở nước ngoài nên trẻ mãi không già, tụi tôi ở đất này, người cứ rã ra như củi mục,” người đàn ông lẩm bẩm. “Thằng Hùng chắc cũng trẻ lắm nhỉ.”

Hùng vừa nhai miếng thịt rắn vừa ngập ngừng gật đầu.

“Cậu có gặp nhà tôi không?” Người đàn ông bỗng hỏi.

Miếng thịt rắn nằm yên giữa hai hàm răng, Hùng lặng người một giây, cố cắn miếng thịt làm đôi. Mấy mươi năm rồi mà Liên - cái cô Liên ngày xưa ấy - vẫn là “nhà tôi” của Khải. Cố nuốt trôi miếng thịt rắn, Hùng lắc đầu, “Em không liên lạc với anh Hùng... nên không biết.”

“Chẳng biết thằng Hùng có biết lo cho Liên hay không. Gần hai mươi năm trời không tin tức gì hết.”

“Em hư hỏng, bị bố mẹ từ, anh em chối bỏ… nên không liên lạc với ai.”

“Cậu có gặp Liên, nhắn giùm tôi…”

Lồng ngực Hùng thắt lại, “Dạ… em không biết chị ấy ở đâu.”

“Hùng hồi đó là bạn thân của tôi. Nó dan díu với vợ tôi rồi hai đứa nó rủ nhau đi vượt biên. Cậu bỏ nhà ra đi chắc không biết chuyện ấy đâu nhỉ.”

Miếng thịt thơm mùi xả trong miệng bỗng đắng chát. Hùng không muốn nuốt vào nhưng cũng không dám nhả ra. Người đàn ông vẫn nhì nhằng bên tai anh. Đám bạn nháy mắt với nhau, “Ông ấy say lắm rồi đấy.”

Bỗng người đàn ông với tay ra sau lôi cái túi vải của Hùng lại, loay hoay mở sợi dây kéo. Hùng luống cuống níu một bên túi. Người đàn ông nắm chặt cái túi, cố kéo sợi dây, “Chú em đem cái gì về thế này?”

Sợi dây kéo bung ra, người đàn ông thọc tay vào túi moi ra cái áo len cũ. “Quà Canada gì thế này, chú em?”

Ông Khải ơi, thôi đi ngủ được rồi, say quá rồi. Đem ông ấy vào giường thôi. Đám bạn nhậu lao nhao. Gã ngồi cạnh Hùng nói vào tai anh, “Ông ấy uống rượu thay cơm. Nghe nói từ dạo vợ bỏ là bắt đầu say sưa. Không ngày nào không say. Mấy lần viêm gan, người ngợm vàng như nghệ.” Hùng luống cuống gật đầu. Bên cạnh anh, người đàn ông nghiêng ngả, cầm hai tay chiếc áo len cũ căng lên trước mặt. “Mẹ ơi, cái giẻ rách ở đâu thế này?”

Và ông ta gục xuống ngay trước mâm rượu.

6

Tận khuya, Hùng mới về tới khách sạn.

Vừa mở hé cửa cho chồng lách vào, người đàn bà nói một hơi, “Làm gì mà lâu thế cái ông Hùng này! Người thì toàn mùi rượu. Có gặp… ai không mà lâu thế?”

Hùng ném người lên mặt nệm. Chiếc nệm mềm ôm lấy lưng anh, cảm giác dễ chịu lan dọc sống lưng.

“Có gặp… ai không?” Vợ anh hỏi.

Thêm một lần nói dối chắc cũng chẳng hại gì, anh thầm nghĩ. Và buồn bã lắc đầu.

Hoàng Chính
Link YouTube: https://youtu.be/j0lzI7LY8p8
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.