Hôm nay,  

Bản dịch Anh, Pháp từ Hồi Ký: Ba, con không muốn là người CS

06/06/202500:00:00(Xem: 941)
TN-ANH-bia-sach

Bìa sách 

 
Viết cho thế hệ trẻ là quan tâm lớn của nhiều nhà văn gốc Việt. Và mới trong tháng qua, nhà văn Trần Ngọc Ánh vừa ấn hành 2 bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp của tập hồi ký “Ba, Con Không Muốn Là Người Cộng Sản.”

Bản dịch sang tiếng Anh do dịch giả Kim Vũ từ California thực hiện, nhan đề “Daddy, I don't Want to be a Communist.” Bản dịch sang tiếng Pháp do dịch giả Bảo Hưng từ Paris thực hiện, nhan đề “Papa, Je ne voudrais pas être communiste.” Cả hai bản dịch này ấn hành chung trong cuốn sách dày 184 trang. Bìa sách thực hiện bởi hai họa sĩ: Trần Nho Bụi và Phan Trường Ân. Một số tranh trong sách là từ họa sĩ Nguyễn Tư.

Nơi trang 3, tuyển tập song ngữ Anh-Pháp này được giới thiệu bằng một câu tiếng Anh, nơi đây chúng ta dịch là: “Truyện viết bởi một phụ nữ bị tù hơn mười năm cùng với đứa con của chị khi em bé này chỉ mới một tuổi.”

Nơi trang bìa sau của sách là trích lời tác giả Trần Ngọc Ánh, trong bản tiếng Anh, nơi đây dịch ra tiếng Việt như sau:

Bài học đầu tiên mà người cha Cộng sản của tôi dạy tôi là bài học về SỰ PHẢN BỘI. Nhân danh Đảng của ông, cha đã phản bội miền Nam, nơi đã nuôi dưỡng ông trong suốt thời gian ông theo Cộng sản và hoạt động bí mật cho sự nghiệp Cộng sản của mình.
Nhân danh Đảng của ông, cha đã phản bội người em gái, người đã nuôi con gái ông từ nhỏ. Dưới sự áp bức của chế độ mới, miền Nam trở nên nghèo đói và khốn khổ.

Tôi nghĩ rằng thanh niên Việt Nam ngày nay nên thấy rõ bản chất đen tối của Chủ nghĩa Cộng sản và hãy cố gắng xóa bỏ nó ra khỏi quê hương, để Việt Nam có cơ hội vươn lên trong Tự do và Dân chủ.”

Trong sách này, nơi trang 7-13 của ấn bản dịch song ngữ Anh và Pháp, các trang này ghi là Ngược Dòng, có duy nhất vài trang tiếng Việt của tác giả Trần Ngọc Ánh, trích từ cuốn hồi ký "Ngày Tháng Buồn Hiu", như sau:

"Ba tôi là một người Cộng Sản, ông đã tham gia cách mạng suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp chống Mỹ, các chị em tôi lớn lên ở Sàigòn, nằm trong lòng "địch", cả nhà đều là những chiên sĩ xung kích trên khắp các mặt trận ở miền Nam cho đến ngày "giải phóng". Má thì nuôi giấu cán bộ Việt Cộng, các chị em thì làm giao liên... Sau 30/4/75, ba và chị tôi được đón về từ nhà tù Côn Đảo như những người vinh quang nhất trong ngày vui đại thắng, gia đình tôi là một địa chỉ đỏ của thành phố với nhiều huân chương kháng chiến chống Mỹ được treo đầy tường. Còn tôi, tôi đã vào tù với cái tội "chống- kháng- chiến-chống-Mỹ," sự đời có những điều trớ trêu và đau lòng trong cảnh nồi da xáo thịt! Câu chuyện kể ra thì dài, nhưng đại để như lời khai trong tờ lý lịch của ba tôi khi viết về tôi, "...do thời buổi chiến tranh gia đình ly tán, tôi gởi con gái tôi cho cô em nuôi ăn học, nay đất nước hòà bình, tôi mang con về sum họp."

Nếu chiếc lá chỉ rụng về cội thì có lẽ không có gì để nói, nhưng đằng này tôi lại không giống như những đứa con trung hiếu của ông, mà lại giống "ngụy" (bởi lẽ gia đình cô tôi trước kia là sĩ quan trong chế độ cũ) như lời phê bình của chị tôi - một cán bộ tuyên truyền:

"Con Ánh nó quen thói tiểu tư sản, tại Cô Sáu cưng chiều nó quá nên tính nết nó ngoan cố bướng bỉnh như vậy."
Và Ba tôi cũng nhận xét trong một buổi họp gia đình: "Tư tưởng còn lệch lạc, nặng về chủ nghĩa cá nhân, bản thân cần phải tích cực rèn luyện để phấn đấu tiến bộ v.v và v.v ..."

Có lẽ chính vì vậy mà ba tôi đã cố gắng để cải tạo đứa con ngược dòng của mình bằng hình thức kiểm điểm, bất cứ một hành động gì sai trái ở gia đình hay trong cơ quan, nghe phản ảnh lại là ba tôi bắt làm tờ kiểm điểm, kể cả những lúc vô tình hát vu vơ một khúc "nhạc vàng".... Nên suốt thời gian đầu về đoàn tụ gia đình, tôi không thấy có một ngày vui, chắc cũng không khác gì những binh lính chế độ cũ bị cưỡng bức trong lao tù Cộng sản, ăn cơm bo bo và bị viết miệt mài để nộp cho ba tôi những bản kiểm điểm dài ngoằng, như luận văn để được tốt nghiệp vào trường "Cách Mạng", dĩ nhiên mỗi lần như thế là tôi đã khổ sở đến độ nào!

Chỉ vài tháng công tác xã hội, sinh hoạt tập thể vớ vẫn, tôi đã được chọn để kết nạp vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, điều này lại khiến tôi phản ứng dữ dội, chi đoàn méc về ba tôi và ông đã nổi giận thực sự, ông hét lên:

"Con có biết tại sao con được vào Đoàn không? Nhờ ba - nhờ lý lịch cách mạng của gia đình mình, con có biết mọi người vẫn mơ ước được đứng vào hàng ngũ vẻ vang này không, có những anh bộ đội đi suốt từ Bắc vào Nam để chiến đấu, đã đổ biết bao xương máu mà vẫn chưa được kết nạp, còn con, tại sao con không thấy được cái vinh quang đó?"

TN ANH va GS Nguyen Van Sam

Từ trái: nhà văn Trần Ngọc Ánh và phu quân là GS Nguyễn Văn Sâm nơi hiên nhà của phóng viên Phan Tấn Hải trong một ngày tưởng niệm 50 năm Miền Nam thất thủ.


Lúc ấy tôi đã cố bình tĩnh để nói với ba một câu khăng khái: "Thưa ba, chính vì con chưa đổ một giọt mồ hôi nào cho chế độ này, nên con không muốn trở thành người Cộng Sản!"

Không khí gia đình như nặng nề hơn kể từ khi có tôi hiện diện.

Cái khoảng cách mơ hồ nào đó giữa tôi và những người thân ngày thêm rộng dần ra, tôi càng chán nản hơn khi nhìn vào thực trạng xã hội của những năm đầu mới giải phóng, thành phố đầy những người thất nghiệp, hàng hóa khan hiếm, vật giá đắt đỏ, cuộc sống của từng gia đình bị đảo lộn bi thảm, tâm lý người dân luôn hoang mang giao động, có những sự mất mát không thể nào bù đắp được. Tôi nhớ đoạn nhật ký của cô em mới 13 tuổi lúc ấy:

"Bây giờ đến lớp buồn quá, bạn bè đứa nào cũng đòi bỏ học vì nhà nó nghèo, ba nó đi cải tạo, mẹ nó tần tảo không đủ ăn, mỗi lần vào lớp cô giáo hỏi ai là gia đình cách mạng, chỉ có mình rụt rè đưa tay lên giữa bao ánh mắt nhìn, tự dưng mình thấy kỳ kỳ, đâu phải tại mình mà ba nó đi cải tạo đâu, tại giải phóng chớ bộ..."

Không riêng con bé thấy kỳ kỳ mà cả tôi, cả bạn bè tôi nữa, chúng nó vài đứa cũng có hoàn cảnh giống như tôi: Ba đi tập kết trở về, gia đình đoàn tụ, tờ khai lý lịch được mở ra trang mới đầy sáng sửa, đi thì - được cộng thêm điểm, đi làm - chỉ cần gởi gầm các đồng chí là yên tâm ngay, mọi việc trong nhà ngoài phố đều êm xuôi thuận lợi... Và cũng không ít những đứa khác lận đận đủ điều bởi cái tội có người thân là ngụy. Tờ lý lịch trích ngang như bản cáo trạng giáng xuống hàng triệu con người những mức án khác nhau tùy theo mức độ tội lỗi của cha, của chồng, của con em đã từng tham gia trong bộ máy ngụy quân ngụy quyền cũ.

Bạn bè họ hàng đang thân thiết với nhau, tự dưng cái rào cản lý lịch làm cho mặc cảm mâu thuẫn, thành kiến thế này thế khác, anh em bà con khác chiến tuyến, bất đồng quan điểm chính trị cũng lạnh lùng lướt qua nhau vì sợ dính líu phiền phức, chưa kể những người ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản, lén lút cơm áo gạo tiền để gởi vô bưng tiếp tế cho cách mạng, khi xong chuyện, cách mạng đánh tư sản te tua sập tiệm, đang giàu có bỗng chốc thành kẻ khốn cùng, không một bàn tay nào dám đưa ra giúp đỡ sợ bị vạ lây.

Chủ nghĩa lý lịch nó khốn nạn thế đó!

Tôi lại nghĩ đến câu chuyện An Tiêm và những quả dưa đỏ (sự tích của thời còn nhỏ nghe Bà kể chuyện đời xưa) và bâng khuâng tự hỏi tại sao mình không thể có những vụ mùa bội thu mà không cần phép lạ, để chủ nghĩa lý lịch không còn cơ hội tồn tại, không là điều kiện tất yếu để quyết định công hầu khanh tướng cho bọn đương thời? Thực tế của cái thiên đường Xã hội chủ nghĩa đã làm tôi điên tiết chán chường, trong nỗi thất vọng phẫn nộ tôi không biết đặt niềm tin vào ai bây giờ ngoài cách viết nó ra cho đỡ ấm ức, thể là những trang "Nhật Ký Mực Tím" hình thành trong lao tù cách mạng, cái nhà tù lớn nhất của cả miền Nam từ sau tháng Tư đáng nguyền rủa ấy. Trong đôi mắt của một cô học trò tỉnh nhỏ như tôi lúc bấy giờ hoàn toàn không có một thế lực thù địch nào đứng sau lưng để xúi giục manh động, tôi viết ra tất cả những gì mà tôi biết, tôi thấy, khi sống trong chế độ giả trá có quá nhiều bất công và nghèo khổ nầy, sự cảm nhận có thể chủ quan nhưng không có nghĩa là không trung thực, khi vẽ nên bức tranh xám xịt phô bày thực trạng tệ hại của xã hội mà tôi đang từng ngày đối đầu với nó. Tôi đã viết trong nỗi xót xa bất lực của chính mình.

Cuốn nhật ký được chuyển ra Mỹ năm 1979 và được in làm nhiều kỳ trong tạp chí "Việt Nam Hải Ngoại" tại San Diego, California cùng năm.

Cuối cùng thì tôi thoát ly cái gia đình cách mạng của mình để trở thành vợ tên phản động. Mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân của nó. Thật ra tôi cũng chẳng có tham vọng gì về chính trị, chỉ muốn sự công bằng và bình đẳng, đòi hỏi niềm hạnh phúc ấm no thực sự đến với mọi người. Ngay từ đầu, cái lý tưởng Cộng Sản của Ba tôi đã làm tôi thất vọng, thực chất nó chỉ là những giáo điều rỗng tuếch gian dối, Cộng sản đã lạm dụng cái từ lý tưởng để bơm căng bầu nhiệt huyết của chúng tôi khi họ nói "vận mệnh đất nước đang nằm trong tay các bạn trẻ hôm nay..." nhưng đằng sau đó là Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và nhân dân làm chủ.

Ôi! Những ông chủ tội nghiệp! Họ đang bị phá sản vì một xã hội tồi tệ với những khó khăn nghèo đói hàng ngày.

Sự lừa bịp trắng trợn đã làm tôi chán ngấy, và tôi nghĩ đó là mục đích để tôi quyết định dấn thân khi cùng chồng "Âm mưu lật đổ chính quyền Cộng Sản".
Tổ chức của chúng tôi bị tan vỡ khi mọi việc chỉ mới bắt đầu và hai vợ chồng đều bị bắt ...

Giai đoạn còn khai cung, tôi gặp một ông cán bộ già đã giảng cho tôi nghe bài học về luân lý khi ông ví tôi như công chúa Mỵ Châu, đã đem nỏ thần trao cho giặc, để nước phải mất, nhà phải tan, ngồi sau lưng An Dương Vương, bị Thần Kim Quy chỉ vào mặt "giặc ngồi sau lưng mi chứ giặc ở đâu?"
Nghịch cảnh nồi da xáo thịt quả là điều đau xót!

Ngay sau khi tôi bị bắt, Ba tôi đã nghiêm khắc từ con. Tôi không trách thái độ cứng rắn của ông bởi vì ông đã hành động đúng với tư cách một người Cộng Sản "Trung với Đảng, Hiếu với Dân, và chuyên chính với kẻ thù."

Mặc dù tôi biết Ba tôi cũng rất thương tôi, ông có cái lý của ông và tôi thì không thể chọn con đường nào khác...
Tôi muốn có những quả dưa đỏ như An Tiêm!
Những năm tháng ở trong tù, tôi nghĩ nhiều về những câu chuyện đáng buồn đã qua, thấm thía nỗi đau của sự mất mát, chồng tôi bị tử hình, và Ba tôi cũng qua đời sau cơn bệnh nặng. Người chết là hết, chẳng còn oán thù hay giận dữ ...
Rồi trong một cõi vô hình nào đó, Ba tôi và anh ấy sẽ gặp nhau, hai người sẽ nói với nhau điều gì về tôi, liệu ba có nói được câu "Ba rất tiếc!" như một nhân vật trong "Love Story" khi mọi việc đã muộn màng.
Vâng, thưa Ba - con cũng rất tiếc, hãy tha lỗi cho con.
(Trích trong cuốn hồi ký "Ngày Tháng Buồn Hiu" của Ngọc Ánh)" (hết trích)

Độc giả muốn tìm đọc sách này, xin email tới tác giả Trần Ngọc Ánh: [email protected]

Tập hồi ký rất cảm động. Sách này sẽ cho giới trẻ đọc tiếng Anh và Pháp một cơ hội nhìn thấy một phần lịch sử quê nhà, về chuyện thật, đời thật của tác giả Trần Ngọc Ánh. Rất hiếm khi độc giả gặp được một tập hồi ký đầy xúc động như vậy. Hãy mua sách này để tặng cho con em trong nhà, hay cho giới trẻ quan tâm về lịch sử rất thật và đau thương của dân tộc Việt những ngày sau tháng 4/1975.
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khánh Ly khóc.Tôi bất ngờ. Mọi người chưa nghĩ ra. 300 cái đầu, 600 trăm con mắt, 600 trăm lỗ tai, 300 hơi thở đều im lặng. Một cảnh tượng hoàn toàn đồng cảm. Tâm trạng nặng nề trong bóng tối tràn ngập cả thính đường. Lúc đó, sân khấu kéo màn. Hậu cảnh sáng dần lên, thấy tấm hình lớn, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đang cầm cây đàn thùng, tay kia quàng qua mái tóc Khánh Ly. Nét mặt ông chìm đắm vào địa đàng âm nhạc và Khánh Ly trẻ như thời còn chân đất ở quán Tre.
Ngày 12 tháng 2 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã sa thải một nửa số thành viên được bổ nhiệm vào hội đồng quản trị của Trung Tâm về Nghệ Thuật Biểu Diễn John F. Kennedy (Kennedy Center for the Performing Arts, gọi tắt là Kennedy Center). Ngay sau đó, các thành viên còn lại, phần lớn là những người mà Trump vừa bổ nhiệm, đã bỏ phiếu để đưa ông lên làm chủ tịch của Kennedy Center. Hội đồng cũng đã bãi nhiệm Deborah Rutter, người từng giữ chức chủ tịch trung tâm từ năm 2014. Mặc dù Rutter vốn dĩ đã có kế hoạch rời đi sau bảy tháng nữa, nhưng hội đồng vẫn quyết định thay thế bà ngay lập tức bằng Richard Grenell, một cựu viên chức trong chính quyền Trump hồi nhiệm kỳ đầu.
Bùi Giáng sinh năm 1926 tại Quảng Nam, mất ngày 7/10/ 1998 tại bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Bùi Giáng là nhà nghiên cứu, khảo luận, dịch thuật và làm thơ. Ông thông thạo nhiều ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức…, nghiên cứu những tư tưởng triết học của Jean Paul Sartre, Heidegger, Nietche, Albert Camus…, dịch nhiều tác phẩm nổi tiếng của các nhà văn trên thế giới Henry Miller, Simone de Beauvoire, St Exupéry, Sagan, khảo luận những tư tưởng triết học Đông Tây Kim Cổ… Ông xuất bản nhiều tác phẩm dịch thuật, nghiên cứu, phê bình, nổi tiếng các tập thơ Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột…
Lũ con cháu chúng tôi sang thăm cô Nhã chú Từ ở thành phố Malmo, miền Nam Thụy Điển, vào khoảng giữa tháng 10 2024. Có chúng tôi về, cô chú vui lắm và thường cùng chúng tôi ra ngoài dạo phố, ngắm cảnh, ăn uống. Trong một buổi chiều đi uống cà phê, chúng tôi chụp được tấm hình cô chú nắm tay nhau đi dạo trong một công viên thanh bình, khi trời đất vào thu, dưới ánh nắng nghiêng nghiêng của buổi hoàng hôn cuối ngày. Chúng tôi đặt tên tấm hình đó là “Vẫn nắng vàng dù buổi chiều của đời”, là câu đầu tiên trong bài hát Vầng Trăng Xưa, chú Từ sáng tác trong trại giam Hàm Tân vào năm 1985.
Bước vào phòng triển lãm, ba bức tranh đầu tiên bên tay phải đập vào mắt người thưởng ngoạn là ba tác phẩm của họa sĩ Ann Phong: “I Told You, The Earth Is Warming Up”; “Looking Back, Looking Forward”; “If We Don’t Care For Nature, It Will Disappear.” Chọn ba tác phẩm này cho cuộc triển lãm, họa sĩ giải thích: “Các tác phẩm nghệ thuật của tôi phản ánh mối quan hệ giữa người với người; trách nhiệm mà chúng ta phải có đối với trái đất nơi chúng ta đang sống. Thật đau lòng khi chứng kiến ​​thiên nhiên bị tàn phá bởi lòng tham và sự thiếu hiểu biết của con người. Có vẻ như khi chúng ta càng làm cho cuộc sống của mình trở nên tiện nghi, thì chúng ta càng tạo ra nhiều ô nhiễm hơn; càng làm cạn kiệt tài nguyên của trái đất một cách bất cẩn hơn…”
Nhóm Tuệ Đăng là gì có lẽ đến lúc này không còn xa lạ với cộng đồng người Việt hải ngoại và ngay cả trong nước nữa nhờ thời đại tin học và Youtube lan tỏa nhanh chóng. Nhóm lúc đầu là những thanh thiếu niên Phật tử yêu thích hát nhạc Phật và nhạc quê hương
Nếu "Lữ Hành" là cuộc hành trình thơ thới và bất tận của loài người và được ông sáng tác tại Sàigòn vào năm 1953 đầy hy vọng thì "Dạ Hành" là lúc con người đi trong đêm tối. Mà bóng tối ở đây không là một khái niệm về thời gian khi thiếu ánh mặt trời. Bóng tối là chông gai hiểm hóc của phận người và ca khúc cũng được viết tại Sàigòn nhưng mà là Sàigòn khói lửa của chiến chinh tham tàn năm 1970. Rồi Phạm Duy mới nói về cuộc đi bình thường là bài "Xuân Hành", sáng tác năm 1959, ở giữa hai bài hành kia. Hành trình bình thường và muôn thuở như câu hỏi đầy vẻ triết học là "người là ai, từ đâu tới và sẽ đi về đâu ".... Ngươi từ lòng người đi ra rồi sẽ trở về lòng người. Người vừa là thần thánh, vừa là ma quỷ, biết thương yêu dai mà cũng biết hận thù dài…. Nhất là biết vui buồn giữa hai nhịp đập của con tim, ngay cả khi tim ngừng đập.
Buổi ra mắt sách "Mai Áo Dài" không tổ chức ở khu hội chợ Tết ở Phước Lộc Thọ. Không pháo, không múa lân, không thức ăn, nhưng vẫn thu hút hàng trăm người đến dự...
Thời gian là thực phẩm dài hạn cho người sống. Không thể từ chối. Hoặc chúng ta hưởng thụ nó. Hoặc chúng ta chịu đựng nó. Món ăn này đôi lúc sung sướng để nhai. Đôi lúc mệt mỏi, phiền hà để gặm. Đôi lúc nuốt xuống mắc nghẹn. Đôi lúc nuốt không kịp thở. Đã làm người thì nhất định phải biết sử dụng thời gian. Nếu ai không biết, thì thời gian sẽ sử dụng người đó.
Nghe danh nhà văn Khánh Trường đã lâu, biết ông là họa sĩ, điều đầu tiên tôi đi tìm là cái nhìn của người họa sĩ trong tập Truyện ngắn Khánh Trường I. Ông có những đoạn văn tả cảnh đầy màu sắc. “Bầu trời ửng sáng. Nắng rải xuống mặt đất màu vàng dịu. Nắng làm cho màu đỏ tấm pano quảng cáo trên mặt tường ngôi nhà bên kia đường hực lên rực rỡ, khiến thân thể trần truồng một trăm phần trăm của thiếu nữ nằm tênh hênh suốt chiều ngang tấm pano trở nên mời mọc quyến rũ hơn.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.