Hôm nay,  

Lá Phiếu Âu Châu

23/07/200800:00:00(Xem: 8388)
...nếu cử tri Mỹ lại bỏ phiếu khác với cử tri Âu Châu - nhiều phần là như vậy - quan hệ Mỹ-Âu sẽ không được hàn gắn...

Khi Âu và Mỹ cùng nhìn về một hướng...

Tuần này, dư luận Âu Châu sẽ có dịp chiêm ngưỡng dung nhan của Nghị sĩ Barack Obama, ứng cử viên sẽ thành chính thức của đảng Dân Chủ trong cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ. Đây sẽ là dịp khiến người ta tự hỏi vì sao Âu Châu cứ bỏ phiếu... trật, rồi hậm hực với Mỹ.

Mọi chuyện dường như xảy ra tại... Florida.

Trong cuộc bầu cử năm 2000, đại đa số dân chúng Âu Châu đều có thiện cảm với ứng cử viên Al Gore, Phó tống thống trong tám năm của ông Bill Clinton. Trong các cuộc khảo sát ý kiến, hơn 70% dân chúng Âu Châu cho biết là họ sẽ dồn phiếu cho Al Gore nếu được phép đi bầu. Tỷ lệ quá lớn ấy cho thấy dân chúng Âu Châu nói chung thiên tả hơn dân Mỹ, cũng chẳng sao vì mỗi nơi lại có những đặc tính hay ràng buộc riêng về tư tưởng và quan điểm.

Chuyện éo le không phải là không một ứng cử viên tổng thống nào lại có thể đạt được số phiếu tới 70% của cử tri Mỹ. Chuyện éo le là cuộc bầu cử ngang ngửa tại Mỹ vào năm 2000 khiến lá phiếu của cử tri tại một quận của Florida lại quyết định về kết quả của cả tiểu bang, và từ đó kết quả của cuộc bầu cử.

Âu Châu theo dõi chuyện kiện cáo và đếm phiếu rất sát. Tới khi Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ ra phán quyết, với đa số là một phiếu, về việc đếm phiếu tại Florida, dư luận Âu Châu cay cú kết luận là Bush đã thắng một cách bất xứng. Họ còn cay cú hơn cả Al Gore, và không che giấu ác cảm dành cho một tay cao bồi Texas, đầy vẻ Mỹ ruộng, rất kém văn hoá.

Tuần trăng mật giữa Tổng thống Bush với Hoa Kỳ không bao giờ có: Bush không quên lá phiếu chật vuột và thái độ khiếm nhã của Âu châu. Ông đi tìm một Âu Châu khác.

Nhậm chức vào tháng Giêng, Bush tham dự thượng đỉnh Âu-Mỹ vào tháng Sáu, nhưng không đặt chân vào hai cột trụ chính của Âu Châu là Đức và Pháp. Ông tới Tây Ban Nha họp Thượng đỉnh của Minh ước NATO và bay thẳng qua Thụy Điển dự thượng đỉnh Âu-Mỹ rồi ghé thăm Ba Lan, nói chuyện với Âu Châu từ thủ đô Warsaw. Chủ điểm là tự do - một nhắc nhở về quá khứ đen tối của Âu Châu khi tự do bị vùi dập, và thảm kịch xảy ra.

Bài diễn văn ấy trở thành cương lĩnh đối ngoại của vị Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ. Mà Âu Châu không hiểu.

Tại thủ đô của Ba Lan, ông Bush nói về nền tảng bất di bất dịch của Tây phương, cả Âu lẫn Mỹ, là tự do và dân chủ, là quyền tự quyết của các dân tộc, và nỗ lực của các quốc gia nhằm phát huy tinh thần độc lập, sự cởi mở về tư tưởng và thịnh vượng về kinh tế. Âu Châu vẫn nghĩ rằng đây là khẩu hiệu nhàm chán, nhưng lúng túng khi Bush nói thêm về chuyện mới cũ: nền dân chủ mới tranh thủ của Ba Lan là biểu hiệu chói lọi về tinh thần dân tộc của quốc gia này. Bush gián tiếp làm nổi bật vai trò của Hoa Kỳ khi đưa quân sang bảo vệ Âu Châu rồi góp phần tái thiết và xây dựng dân chủ cho Tây Âu. Trước Tổng trưởng Donald Rumsfeld mấy năm, ông Bush đã nghĩ tới hai Âu Châu "cũ" và "mới". Âu Châu cũ đã quên chuyện cũ, và quên cả sự đóng góp của Hoa Kỳ.

Khi gặp các lãnh tụ Anh, Đức, Pháp của Âu Châu, Barack Obama không nên quên một kết luận đầy tính tiên tri của Bush: "Khi Âu Châu và Hoa Kỳ mà thiếu thống nhất, thảm kịch thường hay xảy ra!" Tiên tri khi ta nhớ tới thời sự hiện đại, kế hoạch chế tạo võ khí hạch tâm của Iran.

Một cựu sĩ quan đã từng phục vụ tại Tây Đức và rất được lòng dư luận Âu Châu là Ngoại trưởng Colin Powell cũng không nói khác: Tại Âu châu, Hoa Kỳ không chinh phục xâm chiếm gì hơn là khoảnh đất an táng các chiến binh Mỹ đã hy sinh trên chiến trường Âu Châu, cho tự do của người dân Âu Châu. Vậy mà các nước Âu Châu vẫn chưa hiểu.

Hoa Kỳ cũng không hiểu vì sao việc Tổng thống Ronald Reagan thiết trí các hoả tiển tầm trung tại Đức để bảo vệ Tây Âu trước 60 sư đoàn và rất nhiều phi đạn Liên Xô lại bị dân Đức biểu tình phản đối với khẩu hiệu "Thà đỏ hơn chết". Đó là chuyện xưa. Chuyện nay, Hoa Kỳ càng không hiểu vì sao mà sau khi Mỹ bị vụ khủng bố 9-11, vẫn còn người Đức giăng biểu ngữ trên cổng Brandenburg: "Thưa Tổng thống, ông đừng gây chiến!"

Khoảng cách tư duy của hai thế giới Âu-Mỹ quả là đã mở rộng và lỗi đó không hoàn toàn vì Bush.

Sau vụ khủng bố 9-11, Minh ước NATO viện dẫn điều năm của Hiến chương: "tấn công một thành viên của NATO là tấn công tất cả các hội viên NATO". Vì vậy, chiến dịch Afghanistan khai mở với sự tham dự của NATO bên cạnh các đơn vị Hoa Kỳ. Lúc ấy, Chính quyền Bush mới chưng hửng về khả năng đóng góp rất thấp của các đơn vị tác chiến Âu Châu. Vấn đề không phải là NATO gop được hai vạn quân đứng cùng chiến tuyến với hai vạn lính Mỹ. Vấn đề là làm sao đưa các đơn vị đó từ Âu Châu ra tới vùng hoả tuyến Afghanistan. Mỹ đi gánh nợ của quân vận.

Các nước Âu Châu (cũ) thường dõng dạc lên tiếng về mọi chuyện của thế giới, nhưng nói rồi phải làm, khi làm thì lực bất tòng tâm. Đấy là mặt trái, quân sự, của sự gắn bó Âu-Mỹ khi nhập trận tại Afghanistan. Mãi tới gần đây, Canada còn than phiền và đòi rút quân vì thấy các thành viên Âu Châu của Minh ước NATO không góp thêm quân như đã hứa hẹn. Mà Canada không phải là một xứ cao bồi Texas hoàn toàn tâm phục và khẩu phục ông Bush!

Mỗi khi phải đóng góp xương máu để giải quyết thiên hạ sự, Âu Châu cứ như người bị nhổ răng và trong rất nhiều trường hợp, thường chọn giải pháp hoà hoãn để khỏi bị mất máu.

Nhưng, tệ nhất là khi Âu Châu bàn lui rồi còn dạy dỗ Hoa Kỳ về lề lối cư xử.

Trước khi Iraq tấn công Kuweit, các nước Âu Châu đều biết bản chất của chế độ Saddam Hussein, sau đó càng rõ hơn khi Saddam Hussein dùng võ khí tàn sát để giết cả trăm ngàn dân Kurd và dân Shia - của Iraq. Âu Châu cũng biết Saddam Hussein thường xuyên vi phạm nghị quyết của Liên hiệp quốc và tấn công các phi cơ Hoa Kỳ - dưới màu cờ quốc tế - bảo vệ vùng cấm bay tại phía Bắc và phía Nam. Các lãnh tụ Âu Châu cũng đều được tình báo - của mình - cho biết Saddam Hussein vẫn tiến hành kế hoạch chế tạo võ khí tàn sát, có khi còn tiến tới loại võ khí nguyên tử.

Khi Chính quyền Bush đề nghị Liên hiệp quốc áp dụng những nghị quyết đã có về Iraq, các nước Âu Châu đều ủng hộ. Nhưng cuối cùng thì Pháp lại bàn lui, với sự đồng tình của Đức. Để Busch lãnh tội một mình là đơn phương tấn công Iraq. Người ta không tính đến sự tham gia của hơn hai chục quốc gia khác! Đó là chuyện 2003.
Qua cuộc bầu cử 2004, Âu Châu lại bỏ phiếu trật nữa!

Giữa hai ứng cử viên George W. Bush và John Kerry, dư luận Âu Châu thiên về Kerry với tỷ lệ 71%. Nghĩa là còn bảo hoàng hơn vua và tái diễn hài kịch Al Gore của bốn năm trước.

Nếu dân Mỹ chỉ bỏ phiếu căn cứ trên chương trình tái tranh cử của Bush thì Kerry sẽ thắng to, nhưng không thể nào thắng với tỷ lệ hoang đường là 70%. Nhưng khốn nỗi, thiên hạ lại bỏ phiếu cho Bush chính là vì Kerry, vì con người và chủ trương của ông ta. Nghĩa là đảng Dân Chủ chọn lầm ứng cử viên chứ nếu không thì ông Bush lại theo cha, thành tổng thống một nhiệm kỳ.

Chuyện này, dân Âu Châu không hiểu nên coi Bush như pha, và nếu được đáp lễ - bị Bush coi như pha - thì cũng là huề. Thật ra, qua nhiệm kỳ hai, Chính quyền Bush có thiện chí hàn gắn mối quan hệ lạnh nhạt với Âu Châu và cả Liên hiệp quốc.

Ngoại trưởng Condoleezza Rice ra sức làm việc thợ hàn đó, mà vẫn không thành vị sự dị ứng quá sâu quá nặng của Âu Châu với tất cả những gì có màu George Bush.

May là Angela Merkel lên làm Thủ tướng Đức rồi Nicolas Sarkozy lên làm Tổng thống Pháp. Hai lãnh tụ mới của Âu Châu "cũ" đã hoàn thành phần vụ của mình và quan hệ giữa Hoa Kỳ và Âu Châu đã có đôi chút cải thiện. Nhưng, nước Mỹ lại có bầu cử và lá phiếu Âu Châu lại dồn qua Obama.

Dư luận Đức nức nở ngợi ca Obama, với tỷ lệ tin tưởng còn cao hơn cho Gore và Kerry: 72%. Một đại trí thức Pháp là Bernard Henry Levy thì không ngần ngại viết thẳng vì sao ông ta ủng hộ Obama.

Nếu Nghị sĩ Obahoa này tưởng thật và đứng trên diễn đàn Âu Châu mà quạt ngược về Mỹ để tranh thủ cử tri Hoa Kỳ, ông sẽ khiến Âu Châu sướng rêm, nhưng có khi thất cử. Từ Âu Châu, ta nên nói về chuyện bầu cử đó.

Nếu chỉ nhìn vào diện mạo và chương trình tranh cử của John McCain, cử tri sẽ chọn Obama, dù không với tỷ lệ áp đảo của cử tri Âu Châu. Nhưng, khốn nỗi Obama lại là... Obama và chương trình tranh cử lắc lư ngoắt ngoéo của chàng là lợi thế mạnh nhất của McCain. Cho nên, kết quả bầu cử tại Mỹ sẽ lại là một bất ngờ nữa, cho dân Âu Châu.

Họ không tin vào điều ấy vì trên lá tử vi chính trị của McCain, ngần ấy hung tinh đều đắc địa: 1) dân Mỹ muốn thay đổi, 2) thiên về đảng Dân Chủ với tỷ lệ rất cao, 3) muốn có lãnh đạo trẻ có thể vượt qua mọi dị biệt về màu da; 4) và có khả năng giải quyết những vấn đề kinh tế trước mắt. McCain không thể thỏa mãn ngần ấy ước mơ, vậy mà Obama chưa thể bung quá 50% và vẫn cứ ngang ngửa McCain mới là chuyện lạ.

Trong ba năm làm Nghị sĩ trong Ủy ban Ngoại giao Thượng viện, Obama chưa hề đặt chân tới Afghanistan, thực địa sáu năm của cuộc chiến đầy gai góc gian khổ; chàng chỉ một lần ghé qua Iraq. những 900 ngày về trước; không gặp riêng Tư lệnh chiến trường Iraq - Tư lệnh tân nhậm của Quân khu Trung ương CENTCOM nên sẽ chỉ huy cả hai chiến trường - là tướng David H. Petraeus, hầu có thể hỏi thêm về tình hình tại chỗ.

Khi cần tìm hiểu thì chàng lại biến chuyến du học thành màn tranh cử ngược từ hải ngoại về quốc nội. Và được dân Âu Châu tung hô! Gần như được dân Âu Châu công kênh trên vai để dạy dỗ nước Mỹ. Trong khi ấy, Obama còn khiến Thủ tướng Đức phật ý, bà từ chối việc Obama xuất hiện trước cổng Brandenburg của thủ đô Berlin! Phải chi Obama biết tránh qua một bên, là đứng trên bậc thềm của toà Đại sứ Hoa Kỳ - công thự mới khai trương ngay trước cổng Brandenburg - để nói về nước Mỹ!

Cho nên, nếu cử tri Hoa Kỳ lại bỏ phiếu khác với cử tri Âu Châu - nhiều phần là như vậy - quan hệ Mỹ-Âu sẽ không được hàn gắn. Mà sự kiện đáng tiếc này không thuộc trách nhiệm của McCain! Nếu khéo xử, McCain nên nhắc nhở dân Mỹ là Âu Châu và Hoa Kỳ không nên nhìn vào mặt nhau như đối thủ, mà nên cùng nhìn về một hướng.

Như Bush đã nói bảy năm về trước! (080721).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.