Hôm nay,  

Chất đất hiếm: R.E.E.

10/10/201700:00:00(View: 8261)
Chất đất hiếm - REE
Thanh Trương Lacey

 
Trong tương lai, quốc gia nào làm chủ nguồn đất hiếm sẽ làm bá chủ về mặt công nghiệp kỹ thuật cao cấp trong nhiều lãnh vực.

*

Đất hiếm đang được dùng trong công nghệ có mức đòí hỏi kỹ thuật cao như pin điện cho xe hơi, các cơ phận điện tử quốc phòng và trong nhiều lảnh vực khác.    Đất hiếm được xem là “quý hơn vàng” vì có nó mới có thể chế tạo đươc những sản phẩn công nghệ cao.  Hiện nay Trung quốc có rất nhiều mỏ về đất hiếm và coi như đang ở vị thế “bá chủ hoàn cầu” về khoáng chất quý này và đang cố tình giảm lại mức xuất cảng làm ảnh hưởng rất nặng nề đế công nghệ kỷ thuật của Nhật và nhiều quốc gia tiên tiến khác.  Chúng ta thử tìm hiểu thêm về chất đất hiếm  hay R.E.E. này.                   

Chất đất hiếm, hay rare earth element, viết tắc là R.E.E., được định nghĩa là một kết hợp của 17 hoá chất , trong đó có hai chất có tên là Scandium, Yttrium và 15 chất Lanthanides.  Scandium và yttrium được xem là đất hiếm vì có nằm chung quặng mỏ với chất lanthanides và có cùng giá trị hoá học.

Dù có tên khác nhau nhưng các chất đất hiếm ( trừ chất có tính bất định cao là promethium ) thì các chất khác tương đối có nhiều trong vỏ trái đất.  Tuy nhiên vì do tính sở -hữu- điạ- chất, chúng không thể được tìm ở hình thức cô đọng và ít tốn kém.  Chính vì sự hiếm hoi của những khoáng chất này  nên chúng được gọi là “đất hiếm”.  Chất đầu tiên là gadoline được lấy ra từ một mỏ ở làng Ytterby, Thụy điển; nhiều chất khác được đặt tên lấy từ địa danh này, một số khác được lấy tên các khoa học gia đã tìm ra chúng.  Chúng được phân loại ra:

- Đất hiếm

- Kim loại đất hiếm

- Phần tử đất hiếm

- Ốc-xit đất hiếm

- Phần tử đất hiếm nhẹ

- Phần tử đất hiếm nặng.

Chất đất hiếm được thế giới biết đến từ khám phá “khoáng chất đen” tên ytterbite (được đổi thành tên là “gadolinite” năm 1800) do một sĩ quan tên Carl Axel Arrhenius vào năm 1787 tại một hầm mỏ đá ở làng Ytterby, Thụy điển.

Cho đến năm 1802, có hai chất đất hiếm nữa được tìm ra là yttrium và cerium và cả 30 năm nữa mơí tìm ra được những chất khác như ceria và ochroia.

Năm 1839, một nhà hóa học dùng nhiệt tách chất ceria và cho hoà tan vào acid nitric và gọi tên nó là dung dịch muối lanthana và ông phải mất 3 năm nữa để tách lanthana thành chất didymia và lanthana ròng.

Đến năm 1842 thì số chất đất hiếm được tìm ra là 6 chất.  Các chất đất hiếm thường được tìm ra chung với nhau.  Chúng khó tách rời ra khỏi nhau.  Hai chất tách ra được đầu tiên tìm ra ở thể tách rời là yttria ( năm 1794) và ceria (1802).  Quặng có chất cerium có ở nhiều nơi trên thế giới và hiện đang được đào xới.  Còn quạng có chất yttrium thì nhỏ và hiếm lại ít tập trung một chỗ.  Phần lớn quặng yttrium có ở miền Nam Trung quốc.  Có nơi có độ tập trung đến 65% chất yttrium oxide.  Khoáng chất eudialyte được tìm ra ở miền nam của Greenland có số lượng nhỏ nhưng có trử lượng rất cao chất yttrium.  Trong nhiều năm qua, nhiều quặng có các chất đất hiếm được tìm ra ở Brazil, Ấn độ, Úc và Nam Phi, ở Nga, California và China.


Trong những năm vừa qua, chất đất hiếm được dùng trong kỹ thuật hiện đại ngày càng gia tăng đáng kể như trong các dụng cụ kỷ thuật, kể cả dụng cụ có tính siêu-dẩn, hợp kim, máy đánh bóng điện tử, các tác nhân tinh tế và các bộ phận trong xe hơi điện (phần chính yếu là cho pin và nam châm).   Ions của đất hiếm được trong ngành nhản khoa điện tử có tên là Nd:YAG laser.  Chất Erbrium được dùng trong quang sợi trong hệ thống truyền thông.  Chất đất hiếm cũng được dùng trong bóng điện cathode cho máy tv.  Chất euphorium làm cho màu của truyền hình CRT đẹp hơn.  Yttrium được dùng trong loại microwave có dĩa quay đựng thức ăn.  Chấtđất hiếm oxides được thay thế trong việc hàn vì ít tiết ra chất độc.  Nhiều sản phẩm quôc phòng dùng các chất đất hiếm như: kính quan sát ban đêm, máy đo tầm xa, radar SPY-1 trang bị cho tàu chiến và cho hệ thống phóng ngư lôi của ngư lôi đỉnh Arleigh Burke.

Từ năm 1948, phần lớn đất hiếm trên thế giới được lấy từ Ấn và Brazil.  Trong những năm của 1950, Nam Phi chiếm điạ vị độc tôn.  Trong những năm của 1960 cho đến những năm của 1980, rặng nứi Mountain Pass ở California dẫn đầu sản xuất.  Ngày nay, Ấn và Nam Phi vẫn còn sản xuất nhưng không theo kịp China.  Hiện nay China sản xuất 97% lượng đất hiếm trên thế giới, phần lớn là ở Nội Mông cổ. Tất cả đầt hiếm nặng trên thế giới như chất dysprosium đều nằm ở China.  Năm 2011, Hội Đia chất Mỹ cho ra một tài liệu nghiên cứu là Hoa kỳ có 13 triệu thước khối  các chất đất hiếm.  Nhu cầu  mới hiện nay vượt quá mức cung, người ta e rằng thế giới sẽ sớm bị thiếu chất đất hiếm.

Vì China hạn chế xuất cảng đất hiếm nên ngươì ta đi tìm những nguồn quặng  ở Úc, Brazil, Canada, Nam Phi và tại Mỹ.  Năm 2010 Việt Nam ký hợp đồng với Nhật để cung cấp đất hiếm ở phiá tây bắc tỉnh Lai Châu.   Một phương cách để lấy được đất hiếm là từ phế chất điện tử và từ các chất phế thải có chứa chất đất hiếm.

Việc khai mỏ, lọc và tái phục hoàn chất đất hiếm nếu không được quản trị đúng cách sẽ đem lại hậu quả nghiêm trọng cho môi trường.  Các chất như thorium và uranium, cũng như các chất acids độc đều tạo ra phóng xạ.  Tuy China đã đưa ra những biện pháp đối phó nhưng những nơi khai thác lớn như ở Baotu, thuộc Nội Mông Cổ, nơị tinh luyện hầu hết chất đất hiếm cho thế giới đang bị hũy hoại trầm trọng về môi trường.

Viện dẫn  cớ này, China tuyên bố giảm đi mức sản xuất đất hiếm để tạo thành phẩm với chất  đất hiếm rồi bán ra với giá cao  thay vì bán ra nguyên liệu với giá rẽ cho các quốc gia khác.  Trong biến cố một tàu của Trung cộng bị Nhật bắt giữ hồi tháng Chín năm 2010, TC đã cấm xuất cảng chất oxides đất hiếm sang Nhật [nhưng lại không cấm xuất cảng thành phẩm tạo từ chất đất hiếm của mình!].  TC cũng đã giãm mức xuất cảng chất R.E.E. mỗi năm ở mức 40%, tương đương với 30.258 tấn./.

 
 - Thành phố cuả Bình Yên - Trung tuần tháng Hai, 2011

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.