Hôm nay,  

Bên dưới cánh đồng

12/06/202218:10:00(Xem: 2795)
Truyện ngắn nước ngoài

Wind

 


Chúng tôi thường đến chơi bên đường ray xe lửa. Phải mất khoảng hai mươi phút từ làng để đến đó, và bên dưới cánh đồng rộng lớn Prade là một sườn đồi dốc thẳng phủ đầy cây cọ chạy dài xuống đường xe lửa. Và ngay đó, một mỏm đá hơi nhô ra tạo thành một hốc không sâu, có thể che nắng mưa cho người đến trú, và bọn trẻ chơi đùa vào mùa hè như chúng tôi có thể té ngã trên nền cát ấm êm bên dưới mặt đất mà không bị trầy xước.

 

Tất nhiên, nói đến tàu lửa là rất nguy hiểm, nhưng chúng tôi đã quen đi dọc theo đường ray một cách rành rọt. Đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước. Mỗi khi xe lửa sắp đến gần, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng "chu chu" từ xa để nhanh chóng nép tránh qua một bên. Đôi khi, vào mùa hè quá khô hạn, bụi than cháy dở phụt ra từ ống khói đầu máy xe lửa có thể làm cháy những bụi cây nhỏ ở rìa đường ray, nhưng điều đó chưa bao giờ xảy ra trước đây ở vùng Prade. Tuy nhiên, khu vực này rất dốc, nếu đi đường vòng thì rất lâu. Vì vậy, chúng tôi thường đi đường tắt, men theo đường ray xe lửa.

 

Chiều hôm đó, như mọi ngày vào mùa hè, sau khi ăn trưa ở nhà bà tôi, tôi đi quanh làng để tìm bọn nhóc bạn tôi. Một đợt hạn hán bất thường đã ập đến Causses[1] trong ba tuần. Đứa thì cùng cha đi lấp bể chứa nước ở đài phun nước bên dưới, đứa thì đang sửa xe gắn máy của mình. Người dân Lyon đã bỏ nhà đi ra ngoài hết. Còn tôi thì quyết định đi chơi dưới vùng Prade.

 

Tôi đã gặp Gabriel ở đó. Cu cậu này, tôi với nó không hạp nhau mấy. Nếu như chơi chung một bọn với những đứa khác, thì cũng gọi là tạm được. Rồi lại còn một lý do nữa. Nó đang đi học tại một trường trung học nông nghiệp. Nó là người lớn tuổi nhất trong chúng tôi. Hôm trước, nó lấy chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ của tôi đã làm cho tôi tức điên lên. Nó không cần biết là tôi cần phải đội mũ, nếu không có mũ thì tôi sẽ rất nhức đầu vì cái nắng oi bức. Nhưng chúng nó đã lấy cái mũ của tôi và chuyền cho nhau, rồi Gabriel còn ném nó lên cho vướng vào một cái cây để bọn con gái rú lên cười, và tôi phải trèo lên cây để lấy trong khi bọn chúng giễu cợt và hát theo kiểu "Dân Paris, đầu con bê".[2]

 

Khi tôi đến đó, Gabriel chỉ có một mình, nó đang làm một cái ná cao su từ nhánh đôi của cây phỉ, để bắn chim chóc, chúng ăn lá non trong đám nương mạ. Tôi ganh tị với nó một chút, vì tôi không được phép làm ná. Nó hỏi tôi các bạn khác đang ở đâu, rồi hình như nó đã nói điều gì đó mà tôi không thích, và chúng tôi đã cãi nhau. Tôi để mặc nó ở đó, và tôi bỏ đi. Tôi vừa bực tức vừa nhảy từng bước dài từ tà vẹt này sang tà vẹt khác ở giữa đường ray. Bỗng dưng từ phía sau, tiếng còi tàu làm tôi giật bắn cả mình, tôi vội vàng tấp vào lề cho tàu chạy qua. Tôi nhìn thấy rất rõ là đầu tàu đã để lại một tàn lửa (ở lò cháy trên tàu) bay ra, tàn nhỏ xiu không đáng gì đang len vào đám cỏ. Nhưng việc đó không làm tôi nhớ đến điều gì cả, và tôi lại muốn đến chỗ khác chơi. Cơn giận của tôi qua đi, ánh nắng làm cho cái đầu của tôi nóng bức và có cái gì đó cứ liên tục kêu vù vù trong tai tôi. Tôi chậm chạp leo lên dốc đến kho thóc nhà Couderc để có chút bóng mát.

 

Tôi đang đứng ở cửa sổ con, chơi trò cao bồi cô đơn, bỗng tôi nhìn thấy khói bốc lên từ bên dưới vùng Prade. Tôi cảm thấy thật thú vị khi nghĩ rằng đó là bọn người da đỏ đang làm tín hiệu bằng khói để lấy da đầu của tôi. Tôi nghe thấy tiếng hô ra trận kinh khiếp của họ. Sau đó là tiếng còi báo cháy và tôi đến xem. Toàn bộ sườn đồi bốc cháy dữ dội ở mép đường ray. Lúc tôi đến thì ba chiếc xe tải đã băng qua cánh đồng để phun nước từ trên cao xuống. Họ không cho tôi đến gần. Tôi thấy họ đang mang ra một hình dạng như hình người gói trong bọc ni lông trên cáng. Lúc đó, tôi đã không đến gần để xem. Tôi đã về nhà. Thi thể trên cáng mà các chú lính cứu hỏa mang ra chính là Gabriel. Bà nội tôi vừa mới nghe một người hàng xóm cho hay. Cô ấy đã thật bàng hoàng kinh hãi. Cô phải đến hỏi thăm gia đình của nó. Phần tôi, tôi không muốn ra bên ngoài. Thật ra, tôi đã tự hỏi đáng lẽ tôi đã phải báo... Nhưng báo cho ai?

 

Ngày tháng trôi qua.

 

Chỉ đến sáng ngày tang lễ, tôi mới thực sự biết và nhận trong tiềm thức rằng Gabriel đã chết trong đám cháy ở vùng Prade. Không phải bị thiêu sống, không đâu: chết ngạt bởi khói nóng bỏng khi ngọn lửa lan đến đã khiến anh ta không có lối thoát lúc trú bên dưới chỗ ẩn của tảng đá. Phía trong nhà thờ thì mát được chút ít, còn có thể chịu được. Nhưng bên ngoài trời vẫn quá oi bức.Tôi đến chào gia đình của Gabriel và chia buồn với họ. Rồi những diễn biến sau đó, nghĩa trang, mọi việc... tôi không còn nhớ gì nữa. Tôi nhớ một cách mơ hồ lúc khai trường trở lại. Hai bên thái dương của tôi vẫn còn nóng hổi, như thể cái đầu của tôi sắp nổ tung, và tôi không muốn đến trường nữa. Bác sĩ cho biết không có máu đông tụ lại hoặc sốt cao. Phim chụp X-quang cũng không có gì bất thường. Cha mẹ tôi đã gửi tôi đến gặp bác sĩ tâm lý.

 

Bác sĩ nói đi nói lại với tôi rằng tôi không hề liên quan gì đến việc đau buồn ấy đối với Gabriel, đó chỉ là do sự cố của xe lửa. Không phải lỗi của tôi, nên tôi không có lý do gì để lương tâm cắn rứt. Với lứa tuổi của tôi, tôi không thể dập được lửa hoặc giúp anh ấy thoát ra khỏi nơi xảy ra tại nan. Và rằng cho dù tôi có thể gọi để mọi người đến ứng cứu, họ cũng sẽ đến quá muộn. Ông cũng nói thêm rằng lý do việc cãi nhau giữa hai đứa cũng không phải là không đáng kể. Rằng tôi phải cố nhớ tại sao chúng tôi lại cãi nhau. Tôi vẫn cố gắng nhớ lại. Hình như là Gabriel đã khoe khoang về cách anh ta thanh toán bọn mèo như thế nào...

 

Nhưng tôi đã không thể nào nhớ nổi. Các bác sĩ sẽ chẳng bao giờ có thể chữa được chứng đau đầu của tôi, cho dù tôi đã phải qua tất cả những việc xét nghiệm cần thiết. Tôi đã quen với bịnh rồi, nếu như ta có thể nói sống với bệnh tật như thế. Thỉnh thoảng tôi lại được chữa theo một phương pháp điều trị mới, nhưng rồi đâu cũng lại vào đó.

 

Mới đây tôi đã trở lại Prade bằng xe hơi. Ngày nay, có một cây cầu đường cao tốc bắc qua đường sắt, và người ta đã xây một bãi đậu xe dọc theo xa lộ ngay chỗ đồng cỏ ngày xưa. Nhưng tôi không có thời gian để dừng lại vì tôi phải uống thuốc. Tôi nghĩ bác sĩ tâm lý đã giải thích rất chính xác: tôi không được để mặc cảm tội lỗi hủy hoại cuộc đời mình. Nhưng rồi, khi tôi có cảm giác nóng rực trong đầu, tôi vẫn nghe thấy tiếng hét thất thanh của Gabriel.

 

JH C

(tháilan dịch)

 

Ghi chú:

 

[1] Causses: Ở vùng Massif Central, phía Nam nước Pháp.

[2] “Parisiens têtes de chiens! Parigots têtes de veaux!”: Bài hát Pháp có vần điệu của trẻ con, để chế giễu. (Parisien, Parigot: người dân Paris).

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.