Hôm nay,  

Hoá Thân Và Hoá Dại

01/09/200700:00:00(Xem: 7906)

Chế độ vô thần Trung Quốc đang hoá dại...

Kể từ ngày hôm nay, Thứ Bảy mùng một, Tháng Chín, 2007, mọi vị Phật Sống muốn hoá thân để cứu độ chúng sinh thì phải xin phép Chính quyền Bắc Kinh.

Đây là chuyện khôi hài đen của một chế độ độc tài mà bất lực. Không giải quyết được cho thoả đáng nhiều vấn đề nhân sinh của kiếp này, trong cõi này mà đòi can thiệp vào lãnh vực tâm linh hay tín ngưỡng của thiên hạ.

Quyết định trên của "Ủy ban Nhà nước Quản lý Tôn giáo vụ" được ban hành từ tháng Bảy, mà không chỉ nhắm vào Phật giáo Tây Tạng hay thủ tục thừa nhận các vị Lạt ma. Nó còn khẳng định rằng Bắc Kinh mới có quyền tấn phong các linh mục Công giáo của Giáo hội Vatican.

Hãy nói về chuyện hoá thân trước.

Theo đức tin của Phật giáo Đại thừa, đức Phật đã xuất hiện trên thế gian để cứu độ chúng sinh. Trong cõi chúng sinh đó có con người chúng ta. Quan điểm này đề ra là đức Phật có ba thân (tam thân - nói theo từ Hán-Việt quen thuộc trong giới Phật tử Việt Nam) là Pháp thân, Báo thân và Ứng (hay Hoá) thân.

Hoá thân là thân của một vị Phật hay một Bồ tát chiếu hiện thành người và chịu mọi đau khổ như bệnh, tật, già và chết, của con người. Việc hoá thân ấy là chủ đích của vị Bồ tát vì lòng từ bi, và chịu hy sinh để đưa con người ra khỏi cõi khổ. 

Tin vào điều ấy hay không là quyền từng người, nhưng không ai có thể cấm người khác tin điều ấy, cũng như cấm người khác tin vào quan niệm Phục sinh của Chúa Kytô, một nhân vật lịch sử được coi là đã chết đi mà còn sống lại để tiếp tục cứu giúp loài người.

Trong dòng Phật giáo Đại thừa, Kim cương thừa của Phật giáo Tây Tạng tin rằng các vị Lạt ma (hay Đại sư, Guru, hiểu theo quan niệm thông thường) là hiện thân của Phật, là hoá thân của một vị Bồ tát - như Quán Thế Âm hay Văn Thù Sư Lợi - để hoằng pháp và cứu độ chúng sinh. Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 ngày nay của Phật giáo Tây Tạng là hoá thân của Bồ tát Quán Thế Âm (Chenrizi, theo tiếng Tây Tạng).

Việc tìm kiếm, thử nghiệm và xác nhận hóa thân của các vị Lạt ma (hay Đại sư Rinpoche) phải tuân theo những thủ tục thiêng liêng của các nhà sư Tây Tạng mà người ngoài có thể mường tượng là cũng nghiêm mật như quyết định phong thánh của Giáo hội Vatican. Đấy là quyền lực riêng tư của một Giáo hội, dựa trên đức tin, và đã có nền móng lâu đời trước khi xuất hiện chủ nghĩa Cộng sản tại Trung Quốc.

Trong lịch sử Trung Quốc, không thiếu Hoàng đế Trung Hoa đã tôn kính các vị Lạt ma Tây Tạng như thầy ("Kim cương Đại sĩ", "Pháp vương"), thậm chí tôn là "Tây thiên Đại thiện Tự tại Phật" như dưới thời Từ Hy Thái hậu của nhà Mãn Thanh.

Nhìn trong một viễn cảnh dài, quan hệ các vị Lạt ma Tây Tạng với Đại Hãn Mông Cổ hay Hoàng Đế Trung Hoa cũng có những thăng trầm hay mâu thuẫn như của Giáo hội Vatican với các vua chúa Âu châu vào thời Trung Cổ. Nhưng chúng ta đã ra khỏi thời Trung Cổ từ lâu và nay đã bước vào thế kỷ 21!

Thật ra, trong dòng văn hoá thần bí của họ, người Trung Hoa không thiếu chuyện tái sinh, để báo ân hay báo oán, từ truyện Kiệt, Trụ, Đát Kỷ tới các nhân vật thần kỳ trong Thuyết Đường. Điều khác biệt, nếu có, là các vị Lạt ma Tây Tạng nguyện tái sinh để cứu độ toàn thể chúng sinh - quan điểm Đại thừa - chứ không để báo đền ân nghĩa hay oán thù riêng cho một người.

Bước qua thế kỷ 21, khi Chính quyền Bắc Kinh muốn nhúng tay vào tiến trình đó và đòi hỏi các vị Lạt ma phải xin phép rồi mới ứng hiện có đăng ký đàng hoàng vào một kiếp sau, thì cũng khôi hài như đòi các ngài phải xin... chuyển hộ khẩu từ cõi này qua cõi khác. Theo đúng lý luận thần bí Trung Hoa, người ta phải tin rằng lãnh đạo Bắc Kinh ngày nay là một loại ma vương quỷ dữ được tái sinh để sát hại loài người.

Hay để tuyên chiến với các tôn giáo vì sự khiếp sợ của họ.

Khiếp sợ vì họ làm được những gì cho người dân của họ, ngay trong kiếp này"

Sau khi hoá kiếp mấy chục triệu người vì những hoang tưởng cuồng dại của Mao Trạch Đông - kéo dài hai chục năm - Trung Quốc chỉ bắt đầy chuyển hướng từ năm 1979. Hết thời mộng mị, họ trở thành lý tài và thực dụng, nhưng vẫn giữ nguyên truyền thống vô thần và đa nghi của người cộng sản.

Riêng với Tây Tạng, họ nhập nhằng cạo sửa lịch sử để vừa chiếm xong Hoa lục là bắt đầu "giải phóng" Tây Tạng từ năm 1950. Thực chất là thôn tính xứ này và cho người dân Tây Tạng nếm mùi cách mạng như người dân Trung Hoa, không thiếu một món, từ cải cách ruộng đất tới cách mạng văn hoá. Và thực tế, từ năm 1959, họ tiến hành chánh sách tiêu diệt văn hoá để đồng hóa dân Tây Tạng. Chẳng những diệt đạo, họ còn biến lãnh thổ Tây Tạng thành hầm chứa phế vật nguyên tử.

Việc chuyển hướng của Đặng Tiểu Bình tại Hoa lục chỉ lan tới Tây Tạng 10 năm sau nhưng cũng dẫn tới một đợt tàn sát và đàn áp thứ nhì vào năm 1988.

Tại Hoa lục, chánh sách phát triển đầy tính chất lý tài và thực dụng đã tạo ra thay đổi ở mặt ngoài, trước sự cổ võ của thế giới - và sự lặng thinh không kém thô bỉ của thế giới về những gì đã xảy ra tại Tây Tạng. Nhưng sự thay đổi ấy cũng gây nên muôn vàn vấn đề.

Trung Quốc là nơi mà mấy trăm triệu nông dân đang bất mãn và sẵn sàng nổi loạn. Đây cũng là nơi có tỷ lệ tự sát rất cao của thế giới - mà nhân loại không chịu nhìn ra. Trung Quốc có tỷ lệ ô nhiễm nguy ngập nhất thế giới và đang là đề tài nóng của toàn cầu về tình trạng sản xuất và xuất cảng hàng hoá thiếu vệ sinh, sản phẩm thiếu an toàn. Chuyện sản phẩm Trung Quốc bị chối từ và trả lại là thời sự hàng ngày, đếm không kịp.

Chủ yếu là vì cán bộ đảng viên vô trách nhiệm.

Đảng Cộng sản Trung Quốc không chịu trách nhiệm trước quốc dân nên đảng bộ địa phương khỏi chịu trách nhiệm với trung ương. Mỗi lần phải chấn chỉnh để làm gương thì trung ương chỉ gọt được triệu chứng ngoài da - bằng án tử hình như trường hợp Trình Hiểu Du hồi tháng Bảy, hoặc cho từ chức như Bộ trưởng Tài chánh Kim Nhân Khánh tuần qua - chứ không thể đào sâu tới căn bệnh.

Được số báo chuyên đề Forbes của tuần này chọn là vị nữ lưu có uy quyền thứ nhì thế giới (sau Thủ tướng Angela Merkel của Đức) Phó Thủ tướng Ngô Nghi của Bắc Kinh có hoá ra ngàn tay ngàn mắt cũng không trị được căn bệnh tác trách và gieo độc cho thiên hạ của các doanh nghiệp Trung Quốc.

Chỉ vì căn bệnh nằm trong thuộc tính của chế độ.

Tại Trung Quốc, quyết định về kinh doanh sản xuất không dựa trên luật lệ áp dụng thống nhất mà trên quan hệ - không là nhân quả của tiền kiếp - về tiền bạc với đảng viên. Kinh doanh càng lớn thì quan hệ phải càng cao và càng tốn. Nhờ quan hệ chằng chịt đó, việc kiểm phẩm hay bảo vệ môi sinh là sự hoang phí không cần thiết trong suốt tiến trình thu mua, cung cấp và phân phối từ dưới lên trên, cho tới khi ráp chế để xuất cảng ra ngoài....

Mãi đến giờ thế giới mới biết phiên dịch hàng hoá "Made in China", từ đồ chơi, khăn áo, vỏ lốp xe tới thực dược phẩm thành "của rẻ là của ôi". Hoặc chính xác hơn, "của rẻ là của độc",

Một chế độ có biệt tài đầu độc thiên hạ như vậy mà nay lại tự cho mình quyền chọn lựa Hoá thân của các vị Lạt ma!

Phải chi họ dọn dẹp cho sạch những ghẻ lở của chế độ để chuẩn bị màn trình diễn Thế vận vào năm tới!

Nhưng, biết đâu chừng, chính là vì Thế vận năm tới mà lãnh đạo Bắc Kinh phải tung ra những biện pháp ngược ngạo này" Lý do là để Thế vận Bắc Kinh không vận vào mình và mở ra nhiều động loạn mà họ rất sợ....

Tưởng rằng sau thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc đã hết cơn hoá dại! Vẫn còn lầm...

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.