Hôm nay,  

Lo Ngại Về “Sụp Đổ Dân Số”: Chỉ Là Ngộ Nhận

8/15/202500:00:00(View: 835)

Dan so
Các nhà nhân khẩu học khẳng định suy giảm dân số không phải là điều tất yếu hay thảm họa; đó là do cách hiểu sai dữ liệu. Tỷ lệ sinh sản giảm tại Hoa Kỳ không đồng nghĩa với khủng hoảng kinh tế như nhiều người lo ngại. (Nguồn: pixabay.com)

Giữa lúc tỷ lệ sinh sản (birth rates) tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới liên tục sụt giảm, từ giới công nghệ ở Thung lũng Silicon đến các viên chức tại Tòa Bạch Ốc đều đồng loạt lên tiếng cảnh báo rằng dân số giảm nhanh có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính quyền Trump từng tuyên bố đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích người dân sinh con đẻ cái, nhất là khi tổng sinh suất (Total Fertility Rate, TFR) hiện đã giảm tới 25% so với năm 2007 – xuống mức thấp nhất lịch sử.
 
Tuy nhiên, theo các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu về sinh sản, đời sống gia đình và khuynh hướng sinh con: dân số sẽ không giảm ngay, cũng không phải chắc chắn sẽ giảm, và nếu có thì cũng không phải là điều bi đát.
 
Họ cho rằng, toàn bộ luận điệu về sự sụp đổ dân số đang được xây dựng dựa trên ba hiểu lầm cơ bản. Đầu tiên là sự hiểu sai về các chỉ số sinh sản: chúng không nói lên tất cả, và lại bị dùng để giả định rằng tỷ lệ sinh sẽ giữ nguyên theo thời gian. Thứ hai, người ta thổi phồng tác động của việc sinh ít con đối với tốc độ tăng trưởng và quy mô dân số trong tương lai. Cuối cùng, nhiều người không xem xét đến những thay đổi trong chính sách kinh tế hay thị trường lao động – những yếu tố then chốt có thể làm thay đổi toàn bộ bức tranh.
 
Tỷ lệ sinh thay đổi như thế nào?
 
Để biết trung bình phụ nữ sinh bao nhiêu con, các khoa học gia thường dựa vào một chỉ số gọi là tổng sinh suất (TFR): nếu phụ nữ sinh con theo tỷ lệ sinh sản hiện tại, thì ước tính cả đời họ sẽ có bao nhiêu đứa con.
 
Vấn đề nằm ở chỗ tỷ lệ sinh sản không bao giờ đứng yên. Trong vòng 100 năm qua, tỷ lệ sinh sản đã thay đổi mạnh. Ở Hoa Kỳ, vào những năm 1930, mỗi phụ nữ sinh khoảng 2 con. Tới năm 1960, con số đó tăng mạnh lên 3.7 con. Sau đó, vào cuối những năm 1970 và trong thập niên 1980, tỷ lệ này lại giảm xuống dưới 2. Sang thập niên 1990 và đầu những năm 2000, tỷ lệ sinh sản tăng nhẹ trở lại, ở mức khoảng 2 con/phụ nữ.
 
Từ sau cuộc Suy Thoái Kinh tế từ cuối năm 2007 đến giữa năm 2009, tổng sinh suất ở Hoa Kỳ gần như giảm đều mỗi năm, ngoại trừ hai lần tăng nhẹ sau đại dịch COVID-19 vào 2021 và 2022. Đến năm 2024, TFR lại giảm xuống mức thấp kỷ lục: chỉ 1.6. Nguyên nhân chủ yếu là do số ca sinh ở nhóm tuổi vị thành niên và đầu độ tuổi 20 giảm mạnh – phần lớn là những trường hợp sinh con ngoài ý muốn.
 
Tuy vậy, TFR chỉ phản ánh tình hình hiện tại chứ không cho biết chắc chắn một phụ nữ sẽ có bao nhiêu con, nhất là khi khuynh hướng sinh con đang thay đổi. Ngày nay nhiều người có con khá trễ, và điều này khiến tổng sinh suất có vẻ thấp hơn thực tế.
 
Thí dụ, một cô gái 20 tuổi vào năm 2025 – nếu dựa trên tổng sinh suất bây giờ, thì giả định rằng khi cô đến tuổi 40, sẽ có số con giống như những người 40 tuổi ngày nay. Nhưng chuyện đó khó xảy ra, vì trong tương lai, nhiều người sẽ sinh con trễ hơn, và có thể nhờ y học tiến bộ mà chữa được vô sinh, hiếm muộn. Kết quả là, số phụ nữ sinh con ở tuổi 40 sẽ nhiều hơn so với hiện nay.
 
Nhìn sâu hơn vào câu chuyện sinh con
 
Chính vì chỉ số tổng sinh suất chưa phản ánh hết thực tế, các nhà nhân khẩu học còn quan tâm đến số con thực tế mà phụ nữ sinh ra khi đã hết độ tuổi sinh sản. Khi áp dụng với nhóm phụ nữ từ 40 đến 44 tuổi, chỉ số này lại khá ổn định qua nhiều năm, thường ở mức hai con.
 
Phần lớn người Mỹ vẫn xem việc sinh con là chuyện tốt. Gia đình lý tưởng trong quan niệm của họ vẫn là có ít nhất hai con, và đa số người trưởng thành (khoảng 90%) hoặc đã có con, hoặc đang mong có con.
 
Thế nhưng, không phải ai cũng có thể sống như mình mong muốn. Cuộc sống đắt đỏ, cùng với những bất định của thời cuộc, khiến nhiều người cảm thấy chuyện có con trở nên xa vời.
 
Nói cách khác, không phải người ta không còn muốn làm cha mẹ, mà là dù rất muốn, họ vẫn đành lực bất tòng tâm.
 
Liệu dân số có thực sự sụt giảm?
 
Dự báo dân số tương lai là việc không hề đơn giản. Nhiều người nghĩ rằng dân số thế giới sắp giảm mạnh, nhưng thực tế thì không phải vậy. Theo các dự đoán hiện có, dân số toàn cầu vẫn đang trên đà tăng trưởng.
 
Chỉ 250 năm trước, cả hành tinh chỉ có khoảng 1 tỷ người. Ngày nay, đã có hơn 8 tỷ người. Liên Hiệp Quốc (LHQ) dự kiến đến năm 2100, con số này sẽ lên hơn 10 tỷ. Tuy nhiên, khoảng sai số trong dự báo này dao động tới ±4 tỷ, cho thấy một thực tế khác: dự báo càng xa thì độ chính xác càng thấp.
 
Dự báo dân số trong vòng 5 năm tới còn có thể tin được. Nhưng nếu kéo dài đến 50 hay 100 năm, độ tin cậy sẽ giảm mạnh. Vì thế, đa số các khoa học gia thường tránh đưa ra dự báo quá xa. Nguyên nhân là vì những yếu tố như tỷ lệ sinh sản hay tỷ lệ tử vong chắc chắn sẽ thay đổi theo thời gian, rất khó dự đoán.
 
Đối với Hoa Kỳ, dân số vẫn đang tăng. Dù phụ nữ trung bình sinh ít con hơn (dưới 2.1), số ca sinh vẫn cao hơn số ca tử. Nhập cư cũng đóng vai trò quan trọng. Vì thế, dân số Mỹ được dự báo sẽ tăng 22.6 triệu vào năm 2050 và thêm 27.5 triệu vào năm 2100.
 
Sinh ít con: Có thật sự là hiểm họa kinh tế?
 
Một lý do khiến người ta lo ngại trước tình trạng sinh ít con là vì tỷ lệ sinh thấp sẽ làm thiếu hụt lao động và khiến người cao niên trở thành gánh nặng lớn cho người trẻ. Nhưng điều này chưa chắc đúng – mà ngay cả khi đúng, tăng tỷ lệ sinh sản cũng không giải quyết được vấn đề.
 
Khi sinh suất giảm, tỷ lệ các nhóm tuổi trong dân số có thay đổi. Tuy nhiên, chỉ vì số người cao niên tăng lên không có nghĩa là số người lao động so với người phụ thuộc sẽ giảm, vì trẻ em (cũng là người phụ thuộc) lại giảm theo. Thí dụ, trẻ em dưới 18 tuổi cũng giảm, nên tổng số người trong độ tuổi lao động (18 - 64) không thay đổi nhiều. Thêm vào đó, người cao niên ngày nay không chỉ sống lâu hơn mà còn khỏe mạnh hơn và tiếp tục đi làm.
 
Trong hai thập niên qua, tỷ lệ người từ 65 đến 74 tuổi vẫn đi làm đã tăng lên đáng kể – từ 21.4% năm 2003 lên 26.9% vào năm 2023, và ước tính sẽ đạt 30.4% vào năm 2033. Nếu có điều chỉnh hợp lý về tuổi nghỉ hưu hoặc chương trình An Sinh Xã Hội, thì gánh nặng tài chánh cho nhóm cao niên sẽ được giảm bớt đáng kể.
 
Hơn nữa, việc sinh nhiều con hơn không giúp tăng lực lượng lao động ngay lập tức. Ngược lại, trẻ em là nhóm phụ thuộc (ít nhất là trong 18 năm đầu đời). Trẻ nhỏ cần đến trường, cần người chăm nom, và điều đó khiến nhiều phụ nữ phải gác lại công việc. Thực tế, khi người ta sinh con ít đi, phụ nữ lại khó mà làm việc nhiều hơn – tỷ lệ đi làm của họ đã tăng từ 34% năm 1950 lên tới 58% vào năm 2024. Vì thế, nếu áp dụng các chính sách khuyến khích sinh con mà lại khiến phụ nữ khó đi làm, thì điều đó hoàn toàn mâu thuẫn với nỗi lo về việc hụt lực lượng lao động.
 
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào chính sách kinh tế và điều kiện thị trường lao động, chứ không phải vì dân số già hay trẻ. Thêm vào đó, khi công nghệ đang thay đổi từng ngày từ tự động hóa đến trí tuệ nhân tạo (AI), chúng ta chưa thể biết chính xác nhu cầu lực lượng lao động trong tương lai sẽ ra sao. Hơn nữa, di dân nhập cư cũng là một giải pháp hiệu quả và nhanh chóng để giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động cũng như bảo đảm tỷ lệ người trong độ tuổi làm việc.
 
Tóm lại, chẳng có bằng chứng (khoa học) nào chứng minh cho tuyên bố của Elon Musk về việc “nhân loại đang chết dần.” Đúng là có sự thay đổi trong dân số, nhưng ảnh hưởng của nó không lớn như người ta nghĩ.
 
Nếu đầu tư mạnh vào giáo dục và có chính sách kinh tế khôn ngoan, các quốc gia vẫn có thể thích nghi và phát triển tốt trong thời đại mới.
 
VB biên dịch
 
Nguồn: “Fears that falling birth rates in US could lead to population collapse are based on faulty assumptions” được đăng trên trang TheConversation.com.
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
(Hollywood, 15 tháng 12) - Giới điện ảnh Hoa Kỳ và cả chính trường Washington đồng loạt phản ứng gay gắt sau khi Tổng thống Donald Trump đăng một lời bình bị xem là vô cảm và cay độc về cái chết của đạo diễn Rob Reiner và Vợ Michele Reiner. Trên mạng Truth Social, Tổng thống viết rằng Reiner “đã qua đời vì cơn giận dữ do chính ông ta gieo ra cho người khác,” rồi gán cho ông một thứ gọi là “hội chứng rối loạn ám ảnh Trump,” trong lúc bi kịch gia đình vẫn còn chưa ráo máu, theo tờ Daily Mail.
Một chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng – từng nằm im dưới đáy Bắc Đại Tây Dương hơn một thế kỷ – vừa được đánh thức khỏi giấc ngủ dài bằng mức giá kỷ lục: 1,78 triệu bảng Anh. Chiếc đồng hồ ấy thuộc về Isidor Straus, người cùng sáng lập chuổi cửa hàng Macy’s, một thương gia 67 tuổi đã nằm lại cùng con tàu huyền thoại Titanic trong đêm định mệnh năm 1912. Chiếc đồng hồ – một mẫu Jules Jurgensen 18 carat khắc chữ, được tặng nhân sinh nhật lần thứ 43 của ông vào năm 1888 – nay trở thành hiện vật Titanic có giá cao nhất từng được bán. Kỷ lục cũ vốn thuộc về một chiếc đồng hồ vàng khác từng được trao cho thuyền trưởng con tàu cứu hơn 700 người, bán năm ngoái với giá 1,56 triệu bảng.
Thỉnh thoảng chúng tôi hay tới thăm ông niên trưởng Hải Quân của tôi. Ông đã gần 90 tuổi, mái tóc đã bạc trắng, bên khuôn mặt nhiều vết nhăn, đi đứng chậm chạp, nhưng ông vẫn minh mẫn, trí nhớ vẫn rành rẽ về những câu chuyện thời cuộc xa xưa, và hát vẫn rất hay. Lần thăm viếng vừa qua, ngồi nói chuyện với ông lâu hơn. Trong câu chuyện ông kể: “mình qua đây làm việc vất vả, mong ngày về hưu đưa vợ con đi du lịch cho biết đó biết đây, nhưng không thành, vì bà vợ bị tai biến mạch não khiến nửa người bị tê liệt phải ngồi xe lăn đã 25 năm qua, đi đâu cũng khó khăn”. Tôi bồi hồi xúc động, nhìn ông với tất cả sự cảm thông.
Cuộc sống này không có ai là hoàn hảo mà cũng không có cái gì là hoàn toàn, tất cả mọi sự vật trên đời này đều có khiếm khuyết và không vĩnh cửu. Chính vì thế nếu ai cố gắng đi tìm sự tuyệt đối, họ sẽ thất vọng. Câu thơ trên muốn nói lên ý tưởng, hãy chấp nhận và trân trọng những khiếm khuyết của nhau để chúng ta tới gần nhau hơn, hiểu nhau hơn. Nhà khoa học nổi tiếng Stephen Hawking còn đi xa hơn nữa, ông khẳng định „Nếu không có sự không hoàn hảo, cả bạn và tôi đều không tồn tại” ("Without imperfection, neither you nor I would exist."). Ông muốn nói sự „không hoàn hảo“ của vũ trụ, những giao động đột biến trong quá trình tiến hóa, những sai lệch trong định luật vật lý đã là những điều kiện để tạo nên sự sống trong đó có con người.
Suốt hơn nửa thế kỷ qua, Nghịch Lý Fermi (Fermi Paradox) luôn là một câu đố hóc búa ám ảnh giới thiên văn học. Nói một cách ngắn gọn, nghịch lý này đặt ra câu hỏi: Nếu vũ trụ đã gần 14 tỷ năm tuổi, một khoảng thời gian quá đủ để các nền văn minh tiên tiến, xã hội hiện đại, công nghệ cao phát triển và du hành giữa các vì sao, vậy thì tất cả họ đang ở đâu? Sao chưa có ai ghé qua Địa cầu để “chào một tiếng”?
Trong một bài viết đăng trên trang mạng Psychology Today, Tiến Sĩ Jeff Degraff kể lại một trải nghiệm khá thú vị của mình. Ông cho biết cách đây không lâu, ông bị mắc kẹt. Không phải là kẹt xe hay xếp hàng, mà là một khoảnh khắc mịt mờ về mặt tinh thần. Ông không thể suy nghĩ sâu sắc, không thể cảm nhận được những gì mình đang tiếp xúc. Rồi bất chợt một bài hát hiện lên trong đầu. Không phải bài hát mới nghe gần đây, và cũng không phải bài hát mà ông yêu thích. Nhưng lời bài hát thật sự chạm đến trái tim của ông. Chúng nói lên một điều gì đó mà ông không thể diễn đạt thành lời. Giống như não không muốn nói những lời đơn giản, nên đã quyết định cất tiếng hát.
Cựu Ước chép: “Thiên Chúa lấy đất sét nặn ra ông Adam theo hình ảnh của Ngài. Sau đó làm ông mê đi rồi rút một chiếc xương sườn ra tạo thành bà Eva, dẫn tới tặng cho ông Adam. Ông nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra”. Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau”. Đọc đoạn sách Sáng Thế Ký này, tôi bâng khuâng. Vậy là hai ông bà chưa trưởng thành, nhìn nhau như hai đứa trẻ ở truồng tắm mưa, chẳng động tĩnh chi. Thua xa ông Luân Hoán.
Sáng Chủ Nhật, ngày 19 tháng 10, giữa lúc khách tham quan vẫn đang tấp nập trong viện bảo tàng Louvre, một nhóm gồm bốn tên trộm bịt mặt đã thực hiện vụ trộm liều lĩnh hiếm thấy. Bốn kẻ bịt mặt đã đột nhập Bảo Tàng, dùng cần cẩu phá vỡ cửa sổ tầng trên của tòa nhà Galerie d’Apollon, khu trưng bày các bảo vật hoàng gia Pháp, cuỗm đi những món báu vật vô giá rồi tẩu thoát bằng xe gắn máy (motorbike).
Trong một đêm nhạc thính phòng trình bày nhạc Từ Công Phụng và Ngô Thụy Miên được tổ chức tại Vancouver, Canada, ít năm trước đây với sự có mặt của hai nhạc sĩ, tôi có tham dự. Phần đầu các ca sĩ hát nhạc của họ Từ, phần sau nhạc của họ Ngô, có nghỉ giải lao ở giữa. Trong giờ giải lao, tôi vào sau sân khấu để hàn huyên với ca sĩ Diễm Liên. Chúng tôi đang nói chuyện thì nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đi ngang qua, nói với Diễm Liên: “Nhớ hát đúng lời nhạc nhé!”. Diễm Liên le lưỡi, cười. Tôi giữ ý đi ra cho cô…ôn bài.
Ai cũng biết rằng học chơi nhạc cụ có thể mang lại nhiều lợi ích bên ngoài lĩnh vực âm nhạc. Nhiều nghiên cứu cho thấy chơi nhạc rất tốt cho não bộ, giúp cải thiện các động tác tinh tế, khả năng tiếp thu ngôn ngữ, đối thoại, trí nhớ, giúp não bộ chậm lão hóa. Sau nhiều năm làm việc với các nhạc sĩ, chứng kiến họ kiên trì luyện tập âm nhạc bất chấp cơn đau do thực hiện hàng ngàn động tác lặp đi lặp lại, một nhà nghiên cứu thần kinh học Đan Mạch đặt câu hỏi: nếu luyện tập âm nhạc có thể thay đổi não bộ theo nhiều cách như kể trên, liệu nó có thể thay đổi cách các nhạc sĩ cảm nhận cơn đau?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.