Hôm nay,  

Oppenheimer, những người Mỹ cộng sản và Đại học Berkeley

30/03/202408:11:00(Xem: 2867)
Tạp ghi

BuiVanPhu_2024_0316_Oppenheimer_H01_Campus_Campanile
Cảnh sân trường Đại học Berkeley với giáo sư Oppenheimer, đi giữa, và đồng nghiệp.


Tôi đã xem phim “Oppenheimer” chiếu ngoài rạp, một phần vì tiểu sử của nhà khoa học vật lý đã chế ra bom nguyên tử, từng giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học U.C. Berkeley và vì cũng muốn biết ngôi trường thân yêu của mình đã được lên phim như thế nào.
    Qua phim, khán giả có thể dễ dàng nhận ra tháp chuông Campanile, nhưng hình ảnh này chỉ thấy rất thoáng qua. Còn những nơi khác như LeConte Hall hay cảnh lớp học, phòng làm việc, cũng như Faculty Club House là nơi giáo sư Oppenheimer từng sống qua và làm việc trong thập niên 1930 và 1940 thì chỉ những ai từng học ở đây trong thiên niên kỷ trước mới có thể nhận ra. Không thấy những chỗ thân quen nhất trong sân trường là cổng Sather Gate hay Sproul Plaza như thường hiện lên trong các bản tin trên đài, trên báo khi có sự kiện liên quan tới trường.
    Cuối thập niên 1970, khi còn là sinh viên tại Đại học Berkeley tôi đã có những giờ học vật lý trong LeConte Hall và thường đi ngang qua căn phòng lưu niệm của giáo sư Oppenheimer. Thời gian đó, trong ban giảng huấn của trường đã có nhiều giáo sư được trao giải Nobel. Về vật lý có Ernest Lawrence, Emilio Segrè và hoá học có Glenn Seaborg là những bậc thầy với lý thuyết khoa học cao quá mà tôi chưa hiểu được, tuy có được học với thày Segrè một khoá. Còn Oppenheimer không được giải Nobel nhưng là cha đẻ của bom nguyên tử đã được thả xuống Nhật để kết thúc Thế chiến II nên được nhiều sinh viên biết đến.
    Ngoài phim “Oppenheimer” được tung ra chiếu năm ngoái về một nhà khoa học trong ban giảng huấn Đại học Berkeley, từ ngày đến Mỹ tôi đã được xem phim giải trí cũng như phim tài liệu gồm “The Graduate”, “Patty Hearst” và “Berkeley in the Sixties” có liên quan đến đại học danh tiếng này.
    Phim “The Graduate” là chuyện tình của một cô sinh viên Berkeley, trong đó có bài hát quen thuộc với tôi từ ngày còn ở quê nhà là “Giàn thiên lý đã xa” qua giọng hát Thanh Lan mà khi xem phim tôi mới biết tên gốc bài hát là “Scarborough Fair”. Phim còn có ca khúc “Mrs. Robinson” và đặc biệt là bài “The Sound of Silence” nghe lần đầu tôi đã thích ngay.
    “Patty Hearst” là phim về một nữ sinh viên Đại học Berkeley có tên Patricia Hearst, 19 tuổi là con của gia đình triệu phú Hearst của giới báo chí, bị bắt cóc năm 1974 tại nhà ở Berkeley bởi nhóm vũ trang chống chính phủ Mỹ có tên Symbionese Liberation Army. Cô bị ép buộc lên tiếng chống chính quyền, ôm súng đi cướp ngân hàng vào thời điểm có nhiều bạo động chính trị trong vùng Vịnh San Francisco.
    “Berkeley in the Sixties” là phim tài liệu làm nổi bật sự ra đời của phong trào Free Speech Movement xuất phát từ Sproul Plaza trong sân trường vào thời chiến tranh Việt Nam với hình ảnh vệ binh quốc gia đã bay trực thăng xịt hơi cay xuống để giải tán sinh viên đang biểu tình.
    Từ ngày vào học tại đây, vì các hoạt động sinh viên của trường có nhiều liên quan đến Việt Nam, tìm hiểu thêm tôi được biết vào đầu thập niên 1960 Tổng thống John F. Kennedy đã thăm trường; cuối tháng 10/1963 bà Ngô Đình Nhu đã đến đây, được giáo sư khoa chính trị học Robert Scalapino giới thiệu để bà lên tiếng giải độc cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
    Phim “Berkeley in the Sixties” ghi lại lịch sử sự ra đời của “Free Speech Movement” (FSM) là phong trào đòi tự do phát biểu quan điểm chính trị trong khuôn viên đại học đã làm nổi lên phong trào chống chiến tranh Việt Nam mà nhiều người cho là thiên cộng.
    Tôi thích các phim về danh nhân như “Gandhi”, “JFK” hay “Amadeus”, “Malcolm X” nên đã đi xem “Oppenheimer”. Phim có những câu chuyện liên quan đến hoạt động của cộng sản tại Đại học Berkeley từ thập niên 1930, như tôi mới biết thêm về nhà khoa học danh tiếng này. Qua phim “Oppenheimer” tôi mới hiểu rằng ngay tại thành phố Berkeley và trong khuôn viên đại học đã có những người theo cộng sản từ cả trăm năm trước, như người tình Jean Tatlock của Oppenheimer, là con gái của một giáo sư tại trường. Một người em của giáo sư cũng là đảng viên cộng sản. Khi đó nhiều giáo sư cũng đã thành lập nghiệp đoàn, trong đó có Oppenheimer, hoạt động theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và bị giới chức trong chính quyền Mỹ theo dõi vì nghi ngờ là cộng sản, hay làm lợi, làm gián điệp cho Liên bang Xô Viết.
    Có lẽ vì lý do này mà khi được tung ra chiếu tại rạp ở Mỹ và trên toàn thế giới, tôi nghe nói phim đã không được chiếu ở Việt Nam. Trong liên hoan phim Oscars 2024 hai tuần trước, “Oppenheimer” đã đoạt 7 giải, trong số đó có các giải phim hay nhất, đạo diễn xuất sắc nhất Christopher Nolan, diễn viên chính xuất sắc Cillian Murphy và diễn viên phụ xuất sắc Robert Downey Jr.
    Giáo sư J. Robert Oppenheimer là lý thuyết gia vật lý, giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu sinh tại Đại học Berkeley từ năm 1929 đến 1943. Sau đó được chính phủ Mỹ chọn làm khoa học gia đứng đầu dự án Manhattan Project và ông đã chiêu mộ nhiều giáo sư vật lý và nghiên cứu sinh từ Berkeley cùng tham gia.
    Khởi xướng qua lý thuyết từ Đại học U.C. Berkeley, được đưa qua trung tâm thí nghiệm ở Los Alamos, tiểu bang New Mexico để thử nghiệm và nước Mỹ đã thành công trong việc chế tạo ra những trái bom nguyên tử đầu tiên.
    Tổng thống Harry Truman ra lệnh cho ném những trái bom này xuống Hiroshima ngày 4/8 và Nagasaki ngày 6/8/1945 khiến Nhật phải đầu hàng, đưa đến việc chấm dứt Thế chiến II. Khi gặp Tổng thống Truman, Oppenheimer tỏ ra không vui vì sức tàn phá của bom làm chết hàng trăm nghìn dân Nhật và quan ngại khi thấy chính phủ tuỳ tiện sử dụng bất kể hậu quả. Tổng thống Mỹ thì tỏ vẻ thất vọng và không muốn gặp “crying baby” nữa, ám chỉ nhà khoa học đã chế ra hai trái bom nguyên tử đầu tiên cho nước Mỹ.
    Là cố vấn cho Uỷ ban Năng lượng Nguyên tử của Hoa Kỳ, giáo sư Oppenheimer lại không tán đồng việc nghiên cứu, chế tạo bom khinh khí Hy-drô trong cuộc chạy đua vũ khí với Liên Xô, vì thế một số chính trị gia Mỹ đã đặt nghi vấn về lòng trung thành của nhà khoa học gốc Do Thái với nước Mỹ qua sự kiện ông từng có quan hệ với những đảng viên cộng sản Mỹ khi ở Berkeley, vợ ông là Katherine “Kitty” Puening cũng từng theo cộng sản. Một uỷ ban gồm các nhà lập pháp Hoa Kỳ sau khi nghe điểu trần đã quyết định không gia hạn giấy đặc quyền an ninh – Security Clearance – cho ông.
    Đó là không gian nước Mỹ của thập niên 1950 khi mà trong Quốc hội Mỹ có uỷ ban điều tra những cá nhân bị nghi ngờ có liên hệ với cộng sản.
    Những cảnh trong phim như tháp Campanile, khu nhà lưu trú của các giáo sư, phòng học trong LeConte Hall nay trông vẫn quen thuộc như xưa. Chỉ có điều là trong những năm gần đây tên của toà nhà khoa vật lý, nơi Oppenheimer có văn phòng, nhà trường đã xoá tên LeConte vì nhà khoa học này từng ủng hộ quan điểm “da trắng thượng đẳng”.
    Hôm 10/3 vừa qua, khi nam diễn viên xuất sắc Cillian Murphy lên nhận giải Oscars 2024 ông đã có phát biểu cho thấy thực tế hôm nay giống như thế giới 70 năm trước đây: “Chúng tôi làm phim về nhân vật đã chế ra bom nguyên tử, làm cho thế giới tốt hơn hay xấu đi, thì tất cả chúng ta hiện như đang sống trong thời đại của Oppenheimer.” Đó là một thế giới hiện có nhiều chia rẽ, xung đột và chiến tranh. Cũng như nước Mỹ cũng đã chia rẽ trong thời chiến tranh Việt Nam và nay đang phân cực trong chính trị nội bộ có thể đưa đến bạo động.
 
Bùi Văn Phú

BuiVanPhu_2024_0316_Oppenheimer_H03_Oppenheimer_Seaborg_Lawrance
Ba giáo sư Đại học Berkeley trong thập niên 1930 là Robert Oppenheimer, bên trái, Glenn Seaborg và Ernest Lawrence (Ảnh: BerkeleySide.org)
 
BuiVanPhu_2024_0327_Oppenheimer_UCB_H04_Lawrence_OppenheimerCảnh trong phim với giáo sư Lawrence, bên phải, và Oppenheirmer trong phòng làm việc cũng là lớp học của giáo sư Oppenheimer tại Đại học Berkeley vào thập niên 1930.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
(Hollywood, 15 tháng 12) - Giới điện ảnh Hoa Kỳ và cả chính trường Washington đồng loạt phản ứng gay gắt sau khi Tổng thống Donald Trump đăng một lời bình bị xem là vô cảm và cay độc về cái chết của đạo diễn Rob Reiner và Vợ Michele Reiner. Trên mạng Truth Social, Tổng thống viết rằng Reiner “đã qua đời vì cơn giận dữ do chính ông ta gieo ra cho người khác,” rồi gán cho ông một thứ gọi là “hội chứng rối loạn ám ảnh Trump,” trong lúc bi kịch gia đình vẫn còn chưa ráo máu, theo tờ Daily Mail.
Một chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng – từng nằm im dưới đáy Bắc Đại Tây Dương hơn một thế kỷ – vừa được đánh thức khỏi giấc ngủ dài bằng mức giá kỷ lục: 1,78 triệu bảng Anh. Chiếc đồng hồ ấy thuộc về Isidor Straus, người cùng sáng lập chuổi cửa hàng Macy’s, một thương gia 67 tuổi đã nằm lại cùng con tàu huyền thoại Titanic trong đêm định mệnh năm 1912. Chiếc đồng hồ – một mẫu Jules Jurgensen 18 carat khắc chữ, được tặng nhân sinh nhật lần thứ 43 của ông vào năm 1888 – nay trở thành hiện vật Titanic có giá cao nhất từng được bán. Kỷ lục cũ vốn thuộc về một chiếc đồng hồ vàng khác từng được trao cho thuyền trưởng con tàu cứu hơn 700 người, bán năm ngoái với giá 1,56 triệu bảng.
Thỉnh thoảng chúng tôi hay tới thăm ông niên trưởng Hải Quân của tôi. Ông đã gần 90 tuổi, mái tóc đã bạc trắng, bên khuôn mặt nhiều vết nhăn, đi đứng chậm chạp, nhưng ông vẫn minh mẫn, trí nhớ vẫn rành rẽ về những câu chuyện thời cuộc xa xưa, và hát vẫn rất hay. Lần thăm viếng vừa qua, ngồi nói chuyện với ông lâu hơn. Trong câu chuyện ông kể: “mình qua đây làm việc vất vả, mong ngày về hưu đưa vợ con đi du lịch cho biết đó biết đây, nhưng không thành, vì bà vợ bị tai biến mạch não khiến nửa người bị tê liệt phải ngồi xe lăn đã 25 năm qua, đi đâu cũng khó khăn”. Tôi bồi hồi xúc động, nhìn ông với tất cả sự cảm thông.
Cuộc sống này không có ai là hoàn hảo mà cũng không có cái gì là hoàn toàn, tất cả mọi sự vật trên đời này đều có khiếm khuyết và không vĩnh cửu. Chính vì thế nếu ai cố gắng đi tìm sự tuyệt đối, họ sẽ thất vọng. Câu thơ trên muốn nói lên ý tưởng, hãy chấp nhận và trân trọng những khiếm khuyết của nhau để chúng ta tới gần nhau hơn, hiểu nhau hơn. Nhà khoa học nổi tiếng Stephen Hawking còn đi xa hơn nữa, ông khẳng định „Nếu không có sự không hoàn hảo, cả bạn và tôi đều không tồn tại” ("Without imperfection, neither you nor I would exist."). Ông muốn nói sự „không hoàn hảo“ của vũ trụ, những giao động đột biến trong quá trình tiến hóa, những sai lệch trong định luật vật lý đã là những điều kiện để tạo nên sự sống trong đó có con người.
Suốt hơn nửa thế kỷ qua, Nghịch Lý Fermi (Fermi Paradox) luôn là một câu đố hóc búa ám ảnh giới thiên văn học. Nói một cách ngắn gọn, nghịch lý này đặt ra câu hỏi: Nếu vũ trụ đã gần 14 tỷ năm tuổi, một khoảng thời gian quá đủ để các nền văn minh tiên tiến, xã hội hiện đại, công nghệ cao phát triển và du hành giữa các vì sao, vậy thì tất cả họ đang ở đâu? Sao chưa có ai ghé qua Địa cầu để “chào một tiếng”?
Trong một bài viết đăng trên trang mạng Psychology Today, Tiến Sĩ Jeff Degraff kể lại một trải nghiệm khá thú vị của mình. Ông cho biết cách đây không lâu, ông bị mắc kẹt. Không phải là kẹt xe hay xếp hàng, mà là một khoảnh khắc mịt mờ về mặt tinh thần. Ông không thể suy nghĩ sâu sắc, không thể cảm nhận được những gì mình đang tiếp xúc. Rồi bất chợt một bài hát hiện lên trong đầu. Không phải bài hát mới nghe gần đây, và cũng không phải bài hát mà ông yêu thích. Nhưng lời bài hát thật sự chạm đến trái tim của ông. Chúng nói lên một điều gì đó mà ông không thể diễn đạt thành lời. Giống như não không muốn nói những lời đơn giản, nên đã quyết định cất tiếng hát.
Cựu Ước chép: “Thiên Chúa lấy đất sét nặn ra ông Adam theo hình ảnh của Ngài. Sau đó làm ông mê đi rồi rút một chiếc xương sườn ra tạo thành bà Eva, dẫn tới tặng cho ông Adam. Ông nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra”. Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau”. Đọc đoạn sách Sáng Thế Ký này, tôi bâng khuâng. Vậy là hai ông bà chưa trưởng thành, nhìn nhau như hai đứa trẻ ở truồng tắm mưa, chẳng động tĩnh chi. Thua xa ông Luân Hoán.
Sáng Chủ Nhật, ngày 19 tháng 10, giữa lúc khách tham quan vẫn đang tấp nập trong viện bảo tàng Louvre, một nhóm gồm bốn tên trộm bịt mặt đã thực hiện vụ trộm liều lĩnh hiếm thấy. Bốn kẻ bịt mặt đã đột nhập Bảo Tàng, dùng cần cẩu phá vỡ cửa sổ tầng trên của tòa nhà Galerie d’Apollon, khu trưng bày các bảo vật hoàng gia Pháp, cuỗm đi những món báu vật vô giá rồi tẩu thoát bằng xe gắn máy (motorbike).
Trong một đêm nhạc thính phòng trình bày nhạc Từ Công Phụng và Ngô Thụy Miên được tổ chức tại Vancouver, Canada, ít năm trước đây với sự có mặt của hai nhạc sĩ, tôi có tham dự. Phần đầu các ca sĩ hát nhạc của họ Từ, phần sau nhạc của họ Ngô, có nghỉ giải lao ở giữa. Trong giờ giải lao, tôi vào sau sân khấu để hàn huyên với ca sĩ Diễm Liên. Chúng tôi đang nói chuyện thì nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đi ngang qua, nói với Diễm Liên: “Nhớ hát đúng lời nhạc nhé!”. Diễm Liên le lưỡi, cười. Tôi giữ ý đi ra cho cô…ôn bài.
Ai cũng biết rằng học chơi nhạc cụ có thể mang lại nhiều lợi ích bên ngoài lĩnh vực âm nhạc. Nhiều nghiên cứu cho thấy chơi nhạc rất tốt cho não bộ, giúp cải thiện các động tác tinh tế, khả năng tiếp thu ngôn ngữ, đối thoại, trí nhớ, giúp não bộ chậm lão hóa. Sau nhiều năm làm việc với các nhạc sĩ, chứng kiến họ kiên trì luyện tập âm nhạc bất chấp cơn đau do thực hiện hàng ngàn động tác lặp đi lặp lại, một nhà nghiên cứu thần kinh học Đan Mạch đặt câu hỏi: nếu luyện tập âm nhạc có thể thay đổi não bộ theo nhiều cách như kể trên, liệu nó có thể thay đổi cách các nhạc sĩ cảm nhận cơn đau?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.